Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

Chuyến thăm đồng minh châu Á mang nhiều sứ mệnh của ông Obama


Tổng thống Obama và Hoàng hậu Michiko, trong lễ đón tiếp tổng thống Mỹ ở hoàng cung, ngày 24/04/2014.
Tổng thống Obama và Hoàng hậu Michiko, trong lễ đón tiếp tổng thống Mỹ ở hoàng cung, ngày 24/04/2014. Reuters
Thời sự/Điểm báo: Thứ năm, 24/04/2014

Anh Vũ

Châu Á khu vực năng động về kinh tế và không kém sôi động về chính trị ngoại giao hôm nay được các báo Pháp chú ý nhiều hơn thường lệ bởi có chuyến công du của Tổng thống Obama tới bốn nước đồng minh của Mỹ là Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia và Philippines. Đây là chuyến công du mang nhiều sứ mệnh của tổng thống Mỹ trong lúc tình hình thế giới đang có nhiều biến động thách thức vai trò quốc tế của Hoa Kỳ.
 
Le Monde khái quát mục tiêu chuyến công du châu Á của ông « Barack Obama là để hàn gắn các đồng minh » với nhận định, các căng thẳng trong khu vực (châu Á) và cuộc khủng hoảng Ukraina đang là một trở ngại cho chính sách châu Á của Washington.
 
Le Monde nhận thấy chỉ trong vòng hai năm trở lại đây, khu vực Đông Á đang có nhiều biến chuyển. Biến chuyển trước hết được đánh dấu bằng việc thay đổi lãnh đạo ở các nước trong khu vực diễn ra gần như cùng lúc. Ở Trung Quốc là ông Tập Cận Bình ; bà Park Geun-hye tại Hàn Quốc và ở Nhật Bản là ông Shinzo Abe. Thêm vào vào đó là sự trỗi dậy của các tư tưởng dân tộc chủ nghĩa đang là tác nhân gây căng thẳng trong khu vực đầy tiềm năng tăng trưởng kinh tế này của thế giới.
 
Le Monde nhận thấy « tất cả những biến chuyển đó đang là làm phức tạp tham vọng của Mỹ muốn biến châu Á thành trục chiến lược trong chính sách đối ngoại mới ». Nhất là trong lúc này khi mà vai trò cường quốc thế giới của Mỹ đang sứt mẻ ít nhiều sau những bất lực trong giải quyết cuộc khủng hoảng ở Syria và gần đây nhất là tại Ukraina với việc Nga ngang nhiên sáp nhập Crimée.
 
Theo Le Monde, Tổng thống Obama đến thăm Đông Á lần này để khẳng định Hoa Kỳ quyết tâm trở lại khu vực chiến lược này với vị thế hùng mạnh hơn. Đặc biệt, ông Barack Obama còn mang sứ mệnh hoà hợp hai đồng minh Nhật Bản – Hàn Quốc. Những bất đồng lịch sử và lãnh thổ của hai đồng minh chiến lược của Mỹ đang gây ảnh hưởng tiêu cực đến mối liên minh ba bên, vẫn được Washington coi là hòn đá tảng trong chiến lược xoay trục về châu Á của chính quyền Obama.
 
Cả 4 đồng minh châu Á mà ông Obama viếng thăm trong chặng công du châu Á lần này đều có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Le Monde nhận thấy tổng thống Mỹ có sứ mệnh trấn an các đồng minh về những cam kết trách nhiệm của Hoa Kỳ để đối phó với sự gia tăng sức mạnh quân sự cùng tham vọng lãnh thổ chủ của Trung Quốc ngày càng rõ rệt trong khu vực. Chính vì vậy mà giới quan sát đều nhận thấy dù không tới Bắc Kinh nhưng bóng dáng Trung Quốc vẫn ám ảnh chuyến công du của ông Obama.
 
Trung Quốc khuấy động căng thẳng với Nhật để che dấu những vấn đề khác
 
Le Figaro dành một trang cho các bài viết của các chuyên gia chính trị Pháp phân tích về các mối quan hệ phức tạp trong khu vực Đông và Đông Nam Á.
 
Đáng chú ý có bài viết của chuyên gia Jean Vincent Brisset, Giám đốc nghiên cứu của Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế Pháp Iris, đề cập đến mối quan hệ Trung -Nhật đang căng thẳng vì những tranh chấp lãnh thổ, ẩn chứa những hiểm hoạ khó lường. Bài viết của tác giả tập trung phân tích mối quan hệ đối đầu giữa hai cường quốc châu Á và những lý do có thể dẫn đến xung đột.
 
So sánh tương quan lực lượng quân sự giữa hai nước, tác giả nhân thấy từ hơn một thập kỷ trở lại đây, người ta đã ghi nhận thấy hải quân Trung Quốc đã được hiện đại hoá mạnh mẽ. Ngoài trang thiết bị, khí tài, phạm vi hoạt động của hải quân Trung Quốc đã vươn rộng hơn trước rất nhiều, thể hiện qua việc các đội tàu chiến của Trung Quốc đã thực hiện những chuyến ghé thăm các cảng ở nơi xa xôi, tham gia vào chiến dịch chống hải tặc ngoài khơi Somalia hay thực thi nhiệm vụ sơ tán kiều dân Trung Quốc ở Lybia. Tuy nhiên khả năng tác chiến của lực lượng hải quân Trung Quốc vẫn còn giới hạn, họ chưa có được đủ kinh nghiệm nhất là trong việc phối hợp liên binh chủng dù giờ đây Trung Quốc đã có tàu ngầm, tàu sân bay và nhiều khu trục hạm hiện đại.
 
Trong khi đó, từ sau Thế chiến thứ 2 quân đội Nhật, bị không chế bởi bản Hiến pháp hiếu hoà, Nhật Bản không được phép chi tiêu quốc phòng vượt quá 1% GDP. Vì thế mà Hải quân Nhật Bản thấp kém hơn các đồng nghiệp Trung Quốc về khối lượng cũng như thiếu kinh nghiệm tác chiến trong suốt 65 năm qua. Nhưng bù lại hải quân Nhật được thường xuyên tập luyện với hải quân Mỹ.
 
Trên phương diện ngoại giao, người ta cũng ghi nhận thời gian gần đây Tokyo tìm cách thắt chặt thêm các mối quan hệ chiến lược với tất cả những nước quan ngại tham vọng bành trướng của Trung Quốc, từ Đông Nam Á sang đến Ấn Độ.
 
Trong mối quan hệ căng thẳng Trung- Nhật, tác giả đặt vấn đề đâu là lý do thúc đẩy các lãnh đạo Trung Quốc tung ra các yêu sách chủ quyền với Nhật ở Hoa Đông hay ở Hoa Nam ( Biển Đông), trong khi mà đất nước này đang có những vấn đề hệ trọng bên trong nước cần phải giải quyết. Theo tác giả, thay vì tập trung giải quyết vấn đề tiêu dùng nội địa thiếu thốn, rạn nứt xã hội, ông Tập Cận Bình lại ưu tiên cho cuộc chiến chống tham nhũng và đối đầu với Nhật. Theo tác giả, « người ta có thể thấy ở đây cách thức lãnh đạo của chính quyền Trung Quốc chủ yếu đưa lên trước các vấn đề đề có thể quy tụ dư luận công chúng, trong lúc họ không thể giải quyết những vấn đề chủ chốt khác ở trong nước ».
 
Đấu tranh chống tham nhũng, giúp cho ông Tập Cận Bình triệt tiêu đối thủ chính trị. Khơi ngòi hiềm khích với Nhật là để khuấy động tinh thần dân tộc chủ nghĩa trong dân chúng. Và theo tác giả « đặc biệt đối với phương Tây, việc đưa vấn đề Trung – Nhật lên trên hết giúp cho Bắc Kinh có thể che lấp được ý đồ muốn biến Biển Đông thành « ao nhà » của mình, đó mới là vấn đề hệ trọng.
 

Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

Hậu cần : Nhược điểm to lớn của Hải quân Trung Quốc



Khu trục hạm Trung Quốc  Haikou (DDG-171) tham gia cuộc tìm kiếm máy bay mất tích của Malaysia. Airlines. Ảnh Hải quân Úc công bố ngày 11/04/2014.
Khu trục hạm Trung Quốc Haikou (DDG-171) tham gia cuộc tìm kiếm máy bay mất tích của Malaysia. Airlines. Ảnh Hải quân Úc công bố ngày 11/04/2014. Reuters
Thời sự: Thứ năm, 24/04/2014

Trọng Nghĩa
 
Từ khi chuyến bay MH370 của hãng hàng không Malaysia Airlines biến dạng hôm 08/03/2014 với 2/3 số hành khách là công dân Trung Quốc, Bắc Kinh đã tung một lực lượng tàu thuyền hùng hậu tham gia công cuộc tìm kiếm tông tích chiếc phi cơ bị mất tích. Hành động mang tính chất phô trương lực lượng này tuy nhiên đã để lộ một nhược điểm to lớn của Hải quân Trung Quốc : chưa đảm bảo được vấn đề hậu cần khi hoạt động tại hải ngoại.

Theo ghi nhận của hãng tin Anh Reuters, trong chiến dịch tìm kiếm chiếc Boeing của Malaysia ngoài khơi nước Úc, Trung Quốc đã huy động đến 18 chiến hạm, một đội tàu tuần duyên cỡ nhỏ hơn, một chiếc tàu chở hàng dân sự và một tàu phá băng Nam Cực. Lực lượng đông đảo này, theo phân tích của giới chuyên gia  và tùy viên quân sự trong khu vực, đã kéo dãn tuyến tiếp liệu và hậu cần của ngành hải quân Trung Quốc đang trên đường phát triển nhanh chóng.
 
Lỗ hổng bị lộ ra một cách rõ ràng trong chiến dịch này chính là sự thiếu vắng các căn cứ hải quân Trung Quốc ở hải ngoại, cũng như những cảng bạn, mà chiến hạm Trung Quốc có thể ghé vào để được tiếp tế nhiên liệu hay sửa chữa, bảo trì khi cần thiết.
 
Theo hãng Reuters, giới hoạch định chính sách hải quân Trung Quốc đã nhận thức rõ điều này, và biết rằng họ sẽ phải lấp đầy khoảng trống chiến lược đó để đáp ứng tham vọng của Bắc Kinh, muốn có được một ngành Hải quân đủ sức hoạt động ngoài biển khơi vào năm 2050 – đặc biệt trong trường hợp cần phải can thiệp tại vùng Đông Nam Á hay xa hơn trong trường hợp tranh chấp bùng lên.
 
Hiện nay, Trung Quốc chỉ có duy nhất một căn cứ Hải quân có khả năng cung ứng hậu cần cho chiến hạm, tàu thuyền Trung Quốc hoạt động ở các vùng biển phía Nam. Cơ sở này được đặt trên đảo Hải Nam, ở cực nam Trung Quốc, nhưng vẫn cách xa khu vực mà tàu Trung Quốc đang tìm kiếm chiếc phi cơ Malaysia khoảng 3000 hải lý.
 
Trong các thập niên gần đây, Trung Quốc đã không ngừng thúc đẩy các công trình xây dựng kiên cố trên các hòn đảo, bãi đá và rạn san hô trên Biển Đông mà họ đã đánh chiếm được từ tay hai nước Việt Nam và Philippines, với mục tiêu biến các nơi này làm trạm nghỉ tạm cho tàu bè Trung Quốc khi phải xuống hoạt động ở miền Nam. Bằng chứng rõ rệt nhất là các cơ sở xây dựng trên quần đảo Hoàng Sa chiếm của Việt Nam từ năm 1974, hay Đá Vành Khăn (Mischief Reef) lấy của Philippines năm 1995.
 
Tuy nhiên, các cơ sở nói trên không thể đảm bảo được nhu cầu hậu cần đầy đủ cho một lực lượng hải quân, một nhu cầu chỉ có thể được cung ứng tại các hải cảng thực thụ, điều đang diễn ra cho các chiến hạm Trung Quốc tham gia công tác tìm kiếm xác chiếc phi cơ Malaysia ngoài khơi nước Úc. Vấn đề là nếu việc ghé cảng nước ngoài tương đối dễ dàng trong thời bình, và trong khuôn khổ các chiến dịch cứu trợ nhân đạo, khả năng này sẽ khó khăn hơn khi xẩy ra tranh chấp hay xung đột.
 
Một chuyên gia phân tích tại Bắc Kinh, chuyên theo dõi tiến trình xây dựng của Hải quân Trung Quốc nhận định : « Nếu tình hình thực sự trở nên căng thẳng, với nguy cơ xung đột nổ  ra giữa Trung Quốc và một đồng minh của Mỹ ở vùng Đông Á chẳng hạn, thì khó có thể tưởng tượng ra việc Úc cho chiến hạm Trung Quốc ghé cảng để tiếp tế nhiên liệu ».
 
Theo giới quan sát, Trung Quốc đang quyết tâm thách thức sự thống trị truyền thống của Hải quân Mỹ trong vùng châu Á Thái Bình Dương, đồng thời rất muốn bảo vệ lợi ích chiến lược riêng của họ ở Ấn Độ Dương và Trung Đông.
 
Ian Storey, một chuyên gia về an ninh khu vực tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore cho rằng Trung Quốc rất muốn được như Mỹ, nghĩa là có được các thỏa thuận cho tàu chiến ghé cảng các nước khác, đặc biệt là trên cơ sở dài hạn, và đó chính là một « lỗ hổng rõ rệt » mà Trung Quốc cần lấp đầy.
 
Trong trường hợp của Mỹ, thực tế hoàn toàn khác : Hoa Kỳ đã xây dựng được cả một mạng lưới căn cứ rộng lớn – tại Nhật Bản, đảo Guam gần Philippines và Diego Garcia trên Ấn Độ Dương – được củng cố bằng một loạt các hiệp định liên minh chính thức và thỏa thuận với nhiều nước bạn, cho chiến hạm Mỹ quyền ghé cảng để tiếp tế và sửa chữa, kể cả tại các hải cảng chiến lược ở Singapore và Malaysia.
 
Vấn đề là với các tham vọng biển đảo ngày càng lộ rõ của Trung Quốc trong vùng Biển Đông và Biển Hoa Đông, liệu các láng giềng của Bắc Kinh có sẵn lòng ký kết các thỏa thuận như trên với Trung Quốc hay không ?
 

TQ sẽ dùng vũ lực cho đảo tranh chấp?

Vùng đảo Điếu Ngư gồm năm đảo nhỏ và ba đảo đá

Thứ năm, 24/04/2014
 
Celia Hatton/BBC News
 
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tới Nhật hôm thứ Tư 23/04 để hội đàm với đồng minh chính của họ tại châu Á. Giới lãnh đạo Trung Quốc quan sát diễn biến từ xa trong khi ông Obama nói với một tờ báo của Nhật rằng quần đảo có tranh chấp nằm trong phạm vi hiệp ước an ninh giữa hai nước, mà theo đó Mỹ sẽ có hành động nếu Nhật Bản bị tấn công.
 
Được biết đến với tên Điếu Ngư ở Trung Quốc, và Senkaku tại Nhật Bản, các đảo này không quá nổi trội trên bản đồ trong khu vực, nằm giữa Hoa lục và phía Nam Nhật Bản.
 
Trong nhiều thập niên, nhà chức trách Nhật đã cai quản những đảo được cho là có vị trí chiến lược tại Biển Hoa Đông và có thể có dầu khí phía dưới. Tuy nhiên trong vài năm gần đây, Bắc Kinh đã khởi động chiến dịch khẳng định chủ quyền lịch sử đối với các đảo này.
 
Giới lãnh đạo Trung Quốc thoạt đầu tranh cãi về quyền sở hữu của Nhật vào thập niên 1970 nhưng cả hai nước nhất trí để vấn đề này cho thế hệ tương lai giải quyết.
 
Chủ đề lại được hâm nóng vào năm 2012 khi chính phủ Nhật mua lại các đảo này từ chủ sở hữu tư nhân.
 
Những người theo chủ nghĩa dân tộc Nhật muốn phát triển hòn đảo, theo Tokyo. Họ muốn ngưng kế hoạch này, một phần để thỏa hiệp với Trung Quốc. Không mấy ai tại Trung Quốc tin vào lời giải thích này.
 
Thay vào đó, việc thay đổi hiện trạng này cho Trung Quốc cơ hội để thể hiện tham vọng chính trị đang gia tăng.
 
“Khi ông Tập Cận Bình lên nắm quyền, ông thay đổi cách tiếp cận cơ bản về chính sách ngoại giao của Trung Quốc,” giáo sư Trần Tiểu Hà từ Đại học Nhân Dân nói.
Nếu Nhật từ chối đối thoại về vấn đề này, Trung Quốc phải đưa tàu ra đảo Điếu Ngư để khẳng định quyền về chủ quyền.
Giáo sư Lưu Vĩnh Giang, đại học Thanh Hoa, Trung Quốc
 
“Từ việc duy trì hiện trạng tới cách tiếp cận mới không ồn ào khi làm một việc gì đó.”
 
Trước sự thất vọng của giới lãnh đạo Trung Quốc, Nhật đã không công khai thừa nhận tuyên bố về chủ quyền của Bắc Kinh. Do đó, để tạo sức ép với Tokyo, Bắc Kinh đã đưa tàu ra tuần tra tại khu vực.
 
Chiến đấu cơ của Trung Quốc thường xuyên bay trên vùng đảo trong khi tàu chiến hoạt động trên biển.
 
“Nếu Nhật từ chối đối thoại về vấn đề này, Trung Quốc phải đưa tàu ra đảo Điếu Ngư để khẳng định quyền về chủ quyền,” giáo sư Lưu Giang Vĩnh từ Đại học Thanh Hoa bình luận.
 
Tháng 11 năm ngoái, Bắc Kinh có động thái bất ngờ khi tuyên bố vùng Nhận dạng Phòng không bao trùm khu vực tranh chấp này.
 
Một số quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, đã phớt lờ quy định của Trung Quốc, tuy nhiên đây là phần thuộc chiến lược lâu dài của Bắc Kinh, giáo sư Trần Tiểu Hà nói.
 
“Cách của Trung Quốc là để bảo lưu một dạng quyền và thế tự do để có thể hành động quân sự nếu có điều gì đó xảy ra ở vùng đảo Điếu Ngư hoặc một số khu vực có tranh chấp khác,” giáo sư Cheng giải thích.

‘Một tấc lãnh thổ’

Tàu và phi cơ Trung Quốc thường xuyên xuất hiện ở vùng đảo tranh chấp
Bên trong Trung Quốc, chính phủ dùng công cụ khác là việc tuyên truyền bài Nhật để đưa biển đảo thành vấn đề tiền tuyết trong chính sách đối ngoại.
 
Thế hệ trẻ thậm chí thường xuyên được nhắc nhở về những căng thẳng chưa được giải quyết xuất phát từ thời Thế chiến II.
 
“Bắn quỷ Nhật Bản, trò chơi trên mạng được tung ra hồi tháng Hai trên People.com, một trang web của chính phủ Trung Quốc.
 
Người chơi trò này chọn các lãnh chúa Nhật và ghi điểm bằng việc dùng súng bắn những người này.
 
Trò chơi chỉ là hoạt hình nhưng câu hỏi quan trọng là liệu chiến dịch của Bắc Kinh đơn giản chỉ là trò chơi?
…Tuy là đảo nhỏ nhưng đối với Trung Quốc thì một tấc lãnh thổ cũng đủ lớn để họ giao tranh.
Giáo sư Trần Tiểu Hà, đại học Nhân dân Trung Quốc
 
Liệu ông Tập Cận Bình có thực sự lâm chiến cho vùng lãnh thổ không người sinh sống hay không? Câu trả lời là có.
 
“Có là bởi tuy là đảo nhỏ nhưng đối với Trung Quốc thì một tấc lãnh thổ cũng đủ lớn để họ giao tranh” giáo sư Trần Tiểu Hà nói.
 
Rốt cùng thì đây là vấn đề có tính tương tác và giá trị có tính biểu trưng của những đảo này vẫn tiếp tục còn đó chừng nào cả hai nước đều muốn cai quản.
 
“Nếu Trung Quốc và Nhật có quan hệ thân tình, lợi ích quân sự tại các đảo này sẽ giảm,” giáo sư Lưu nói thêm.
 
Tại bên ngoài tòa đại sứ Nhật ở Bắc Kinh, an ninh được điều động cẩn mật với lính gác và tường rào cao tới 4 mét để không ai nhìn được gì từ bên ngoài.
 
Có nhiều l‎ý do vì sao Trung Quốc và Nhật Bản nên tránh chiến tranh vì lãnh thổ, bao gồm cả hoạt động mậu dịch song phương gia tăng cũng như việc Washington dọa sẽ can thiệp.
 
Tuy nhiên, những khuôn mặt lạnh của lính gác cả bên trong lẫn bên ngoài đại sứ quán Nhật ở Bắc Kinh dường như cho thấy đối đầu quân sự nghiêm trọng sẽ không bao giờ là quá xa vời.
 

Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

Bs Nguyễn Đan Quế được đề cử Giải Nobel Hòa Bình và Giải Nhân quyền Gwan...


Serguei Lavrov, một huyền thoại của ngành ngoại giao Nga

Ngoại trưởng Serguei Lavrov trong một cuộc họp báo tại Matxcơva, ngày 08/04/2014
Ngoại trưởng Serguei Lavrov trong một cuộc họp báo tại Matxcơva, ngày 08/04/2014 REUTERS/Sergei Karpukhin
Thời sự: Thứ ba, 22/04/2014
 
Đức Tâm

Báo Le Figaro, số ra ngày 17/04/2014, có bài viết phác họa chân dung Ngoại trưởng Nga Serguei Lavrov và ca ngợi ông như một huyền thoại của ngành ngoại giao Nga. Serguei Lavrov, người nhân danh nước Nga tiến hành các cuộc đàm phán về Ukraina tại Geneve là một trong những nhà ngoại giao khôn khéo nhất trong thế hệ của ông.

Là Ngoại trưởng của Tổng thống Vladimir Putin từ năm 2004, Serguei Lavrov là hiện thân của sự trở lại của nước Nga trên trường quốc tế. Tại Syria, nơi mà Nga ủng hộ chế độ của Tổng thống Bachar al Assad, Matxcơva đã thành công ngoạn mục bằng cách tặng cho Hoa Kỳ một thỏa thuận tháo dỡ kho vũ khí hóa học, tránh được các vụ tấn công nhắm vào Damas và giúp củng cố chính quyền hiện nay. Còn trong hồ sơ Iran, Nga đã tham gia nhóm sáu cường quốc và đạt được một thỏa thuận về chương trình hạt nhân của Téhéran. Hay trong vùng Liên Xô cũ, Kremlin tìm cách tái lập ảnh hưởng của mình vốn bị mất sau sự sụp đổ của Liên Xô.
 
Nhân vật luôn sẵn sàng đọ sức này, một hôm, đã đề nghị lãnh đạo ngoại giao Pháp Alain Juppé, cách chức Giám đốc chính trị Bộ Ngoại giao Pháp, vì nhân vật này muốn chấm dứt một cuộc họp kéo dài triền miên. Ông là Bộ trưởng tại chức lâu nhất trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Giống như Talleyrand, nguyên là Bộ trưởng phụ trách quan hệ đối ngoại của Pháp gần như trong tất cả các chế độ chính trị từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, từ thời Chế độ quân chủ cũ trải qua thời kỳ Cách mạng, đến tận thời Trùng hưng, ông Lavrov là một trong số người hiếm hoi đã sống sót được dưới thời Vladimir Putin, sau khi đã đảm nhiệm những vị trí danh giá – nhất là tại Liên Hiệp Quốc – dưới thời Liên Xô, rồi dưới thời Boris Elsin, cho đến khi Liên Xô tan rã. Giống như Talleyrand, ông Lavrov đã biết làm cho mình trở nên cần thiết và có một bộ óc « cực kỳ thông minh », theo như lời một số người ủng hộ ông.
 
« Đấng mày râu uy quyền »
 
Sinh tại Matxcơva ngày 12/03/1950, dưới thời Stalin, trong một gia đình Arménia gốc gác ở thành phố Tbilissi, ông Lavrov là một nhà ngoại giao thuộc trường phái cổ. Tốt nghiệp Học viện quan hệ quốc tế Matxcơva, ông là sản phẩm truyền thống của nền ngoại giao Xô Viết. Thiên nhiên Nga đã phú cho ông một thân hình tráng kiện và đặc tính của « đấng mày râu uy quyền ». Ông rất nghiện thuốc lá, rất ưa thích cigar và rượu whisky, tính khí yêu đời, ngược hẳn với sự khổ hạnh của Putin, là người không uống rượu, không hút thuốc và chăm sóc quá mức cho một cơ thể vận động viên. Ông đã phẩy tay gạt bỏ lệnh cấm hút thuốc lá của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, trong trụ sở tổ chức này. Ông giận dữ nói : « Kofi Annan (trước đây là Tổng thư ký) không phải là chủ sở hữu tòa nhà này ».
 
Một hôm, các nhà ngoại giao phương Tây nhìn thấy ông tới dự một cuộc họp của khối NATO, mặt mày bị xây xát, tay gẫy. Một trong các nhà ngoại giao kể lại : « Ông nói với chúng tôi là ông bị ngã khi đá bóng. Nhưng ông có bộ mặt của kẻ vừa đánh nhau ». Lãnh đạo ngoại giao Nga nổi tiếng với những phát biểu đốp chát và cực kỳ nóng nẩy. Tại Geneve, trong vòng thương lượng về hồ sơ hạt nhân Iran, ông đã đập mạnh tay xuống bàn vào lúc ký kết thỏa thuận với Téhéran và nói : « Mẹ kiếp ! Tôi là người duy nhất bị mất tiền tối nay ! » Thế nhưng, theo một nhà ngoại giao, « nếu như ông Lavrov có cử chỉ lời nói thô bạo, nhưng ông không phải là người thô bạo. Ông sẵn sàng rút găng đọ sức, nhưng ông không hung hăng ». Rất thích trượt tuyết và mặc đồ may của Ý, ông thích thơ, nói bốn ngoại ngữ và có tiếng là một người đàn ông lịch lãm.
 
Thế nhưng, ông lại hết sức tận tụy, tôn thờ Nhà nước Nga. Từ khi được bổ nhiệm, ông đã dành hết sức lực và kinh nghiệm của mình để phục vụ ý đồ chính trị của Vladimir Putin : Tái lập ảnh hưởng của Nga trong không gian Xô Viết cũ và trên trường quốc tế. Một quan chức Pháp giải thích : « Đặc trưng ngoại giao của ông được tôi luyện trong những năm Elsin cầm quyền, thời kỳ mà chính sách đối ngoại của Nga bị gạt ra bên lề và các quan chức cảm thấy bị nhục nhã sau khi Liên Xô tan rã ».
 
Về mặt chính trị, ông Lavrov đã tự tôi luyện, ngay trong thời kỳ hỗn loạn này, khi ông làm đại diện của Nga tại Liên Hiệp Quốc. Cũng chính tại New York, ông đã trải qua hai cuộc khủng hoảng mà điện Kremlin không bao giờ nuốt trôi : Đó là cuộc khủng hoảng Irak và Kosovo. Ông đã là Ngoại trưởng khi nổ ra cuộc khủng hoảng thứ ba, liên quan đến Lybia và sự kiện này đã để lại những dấu vết không thể xóa nhòa đối với các quan chức Nga. Họ tố cáo phương Tây đã vượt ra khỏi khuôn khổ nghị quyết Liên Hiệp Quốc khi gạt bỏ Kadhafi ra khỏi bộ máy quyền lực. Bóng đen của cuộc chiến Lybia đè nặng lên hồ sơ Syria. « Các ông đã đánh lừa chúng tôi trong hồ sơ Lybia, các ông sẽ không lừa được tôi trong vấn đề Syria », ông Lavrov đã cảnh báo như vậy trong một cuộc họp mà một nhà ngoại giao có tham dự.
 
Nhờ thời kỳ làm việc tại Liên Hiệp Quốc, ông Lavrov đã có được sự hiểu biết rộng lớn về hoạt động của Hội Đồng Bảo An và có một sự khéo léo hiếm thấy của một nhà thương thuyết. Một nhà ngoại giao Châu Âu bình luận : « Ông biết hết tất cả, nhưng giống như một vụ phó hơn là một Bộ trưởng. Ông thường xuyên không nhìn xa hơn các văn bản ».
 
Là một công chức phụng sự Nhà nước, ông Serguei Lavrov đã dành 10 năm vừa qua để mang lại danh dự – một số người khác thì nói là « mất danh dự » – và sức mạnh cho chính sách đối ngoại Nga. Thái độ chống đối gần như liên tục các sáng kiến của phương Tây và « chủ nghĩa đơn phương » của Hoa Kỳ đã mang lại cho ông danh hiệu « Ngài nói không », khi so sánh với ông Andrei Gromyko, cựu Đại sứ Liên Xô ở Liên Hiệp Quốc, người nổi tiếng với biệt danh diễu cợt « Ngài Niet ».
 
Thế nhưng, kể từ khi xẩy ra cuộc khủng hoảng Ukraina, theo một số nhà ngoại giao, ông Serguei Lavrov đã mất đi một chút ngạo nghễ. Một quan chức Pháp cho biết : « Người ta thấy ông không thoải mái. Nhiều lần, ông đã khẳng định rằng ông không thể quyết định và phải hỏi ý kiến Putin. Bình thường ra, ông nắm vững chính sách đối ngoại, giờ đây ông có vẻ nhắc lại những điều đã được chuẩn bị sẵn ». Lý do, theo lời một quan chức Châu Âu, là vì « ông đã luôn luôn nói với chúng tôi rằng việc sử dụng bạo lực trong quan hệ quốc tế là không thể chấp nhận được. Ông vẫn luôn luôn bảo vệ các nguyên tắc không can thiệp và không xâm phạm biên giới. Thế mà nước của ông lại làm ngược lại ». Năm 2008, việc Nga chiếm đóng quân sự các nước cộng hòa Abkhazia và Nam Ossétia của Gruzia đã làm ông khó xử. Một cựu quan chức Gruzia nhớ lại là « ông Lavrov tỏ ra kém vững tin hơn. Người ta có cảm giác là ông bị gạt ra bên lề một chút ».
 
Nếu như ông Lavrov là hiện thân cho nền ngoại giao do điện Kremlin gọt rũa, thì ông đạt được các thành công ngoại giao cũng nhờ vào quyền phủ quyết của Nga tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc và do sự yếu kém của Hoa Kỳ, Châu Âu đối mặt với Matxcơva. Nếu như Talleyrand từng là một nhân vật theo tư tưởng tự do triệt để, mong muốn thúc đẩy sự cân bằng giữa các cường quốc tại Châu Âu, thì ông Lavrov lại phục vụ một dự án chính trị nhằm tái dựng, dưới một dạng khác, đế chế Liên Xô cũ, làm NATO và Liên Hiệp Châu Âu thất bại, làm Hoa Kỳ yếu đi và ở trong nước, bịt miệng tất cả những tiếng nói dân chủ và tự do. Nhưng cũng như Talleyrand bị gạt xuống phụ trách hậu cần cho một Napoléon đang trên đà chinh phục Châu Âu, ngày nay, ông Lavrov dường như đi theo một Nga Hoàng mới, mà không thể tác động được đến vị hoàng đế này, trên những con đường ngày càng phiêu lưu hơn.
 

Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014

Nga: Quần đảo Kurile là "tiền đồn" của Nga ở Thái Bình Dương

Thời sự: Thứ bảy, 19/04/2014
Quần đảo Kurile với địa hình vòng cung mang tính phòng thủ chiến lược đối với Nga - Montage RFI
Quần đảo Kurile với địa hình vòng cung mang tính phòng thủ chiến lược đối với Nga - Montage RFI
 
Tú Anh
        
Sau Crimée, bàn tay của Nga kéo dài đến tận Thái Bình dương. Hôm qua 18/04/2014, Matxcơva thông báo biến quần đảo Kurile mà Nhật gọi là "lãnh địa phương bắc" thành "tiền đồn" của Nga với hàng trăm căn cứ quân sự sẽ được hoàn tất từ nay đến 2016. Sự kiện này được loan báo trong bối cảnh Tổng thống Obama sắp đến Tokyo để khẳng định liên minh Mỹ-Nhật.
 
Một ngày sau khi Ngoại trưởng Nhật Fumio Kishida, lên án chính sách Nga tại Ukraina và thông báo đình hoãn chuyến viếng thăm Matxcơva, bộ Quốc phòng Nga tuyên bố thông qua một kế hoạch chi tiết xây dựng 150 cơ sở hạ tầng quân sự tại quần đảo Kurile từ nay đến 2016 và hoàn tất việc củng cố các căn cứ tại Sakhaline năm 2020.
 
Tướng Sergei Sourovikine, tư lệnh quân khu Viễn Đông cho đây là một quyết định « có ý thức » của lãnh đạo quốc gia và quân đội nhấn mạnh đến yếu tố phát triển vùng Viễn Đông đặc biệt là Kurile và Sakhaline, hai tiền đồn của Nga tại Thái Bình Dương. Từ Tokyo, thông tín viên Fréderic Charles phân tích : 
 
Từ bảy ngày qua, ngày nào chiến đấu cơ của Nga đồn trú tại Vladivostock cũng xâm nhập vào không phận Nhật Bản. Miền Viễn Đông của Nga vẫn là khu vực được quân sự hóa tối đa. Vài ngày trước khi Tổng thống Mỹ Barack Obama đến Tokyo, bộ Quốc phòng Nga thông báo là từ nay đến năm 2016 sẽ xây dựng xong 150 căn cứ quân sự trên bốn đảo Kurile.
 
Quần đảo này đã bị Stalin ra lệnh cho Hồng quân Liên Xô đánh chiếm vào năm 1945, một ngày sau khi Nhật Bản ký lệnh đầu hàng đồng minh.
 
Nga rất coi trọng quần đảo chiến lược này. Địa hình vòng cung vừa làm hàng rào bảo vệ lục địa Nga vừa là tiền đồn ở Thái Bình dương. Để biện minh cho quyết định quân sự hóa này, Matxcơva cho rằng vì nhu cầu phát triển kinh tế cho khu vực có nhiều dầu khí.
 
Trước khi xảy ra khủng hoảng Ukraina, Thủ tướng Nhật Shinzo Abe đã tìm cách cải thiện quan hệ với Nga để mua dầu khí của vùng Viễn Đông. Sau tai nạn hạt nhân ở Fukushima, Tokyo bắt buộc phải nhập khẩu thêm thật nhiều nhiên liệu để cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện thay thế các lò điện nguyên tử bị ngưng hoạt động.
 
Nguồn: http://www.viet.rfi.fr

Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014

TRUNG HOA VỚI MỘNG CƯỜNG QUỐC LỤC ĐỊA HAY ĐẠI DƯƠNG


Phạm Thiên Thơ
 
Đứng trước sự thách đố của thế kỷ canh tân với môt nuớc Trung Hoa sau nhiều ngàn năm luôn tự thỏa mãn bằng tư tưởng cai tri quân chủ chuyên chế độc tôn lên tất cả nhũng phần đất mà Hán tộc đã xâm chiếm được, hay goi vắn tắt đó là chính trị đại lục, kéo dài sau thời Chiến quốc cho tới Thanh triều và đến hết thế kỷ 20, hiên tại Trung Hoa đang tỉnh mộng, vươn vai và bước dần ra đại dương.

 
Bản đồ địa hình các nước cuối thời Xuân Thu
 
Cưộc xâm chiếm cùa Hán tộc khởi đi mạnh bạo nhất có thể lấy mốc điểm từ thời Chiến Quốc, Tần Thủy Hoàng đánh tan sáu nước Yên, Ngụy, Sở, Tề, Hàn, Triệu để từ đó đế chế chuyên chính độc tôn được thiết lập và truyền đời mãi qua các triều đại về sau, đồng lúc tư tưởng cũng như đời sống con ngưòi càng bị gò ép hơn trong nền chính trị với tư tưởng đạo đức Khổng giáo. Độc tài phong kiến trong triều đại Tần Thủy Hoàng đã đốt hết sách vở và chôn sống giới trí thức học trò. Cho dù nhà Tần cai trị thật ngắn ngủi nhưng thể chế quân chủ độc tài chuyên chế qua những triều đại khác về sau vẫn luôn buộc con nguời sống theo khuôn khổ sáo mòn với những tư tưởng chết động  từ chương trong Tứ thư, Ngũ kinh, chỉ để biết ca tụng cổ nhân mà không được quyền có những tư tưởng sáng kiến hành động khai phóng nào vượt qua lễ giáo tập quán chứ đừng nói chi là vượt qua thời đại đang sống. Thiếu sự hợp tác liên đới và bình đẳng trong thân phận, con người thời phong kiến mặc nhiên âm thầm chứa đựng sự phảng kháng nằm sâu trong cấu trúc hạ tầng xã hội, ầm ỉ dâng cao và bộc phát liên tục đó đây những cuộc nổi loạn chỉ vì muốn bước ra khỏi vòng kềm tỏa những ràng buộc lễ giáo phong kiến, với một hệ thống chính trị đầy tôn ti và khắc khe chỉ cốt để phục vụ cho thiểu số dòng họ vua chúa.
 
Mất tự do tư tưởng nên suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa sau thời chiến quốc đến sau này không sản sinh thêm những tư tưởng triết học cao siêu nào khác, ngoại trừ chỉ nhai đi nhai lại các tư tưởng đã có sẳn như Khổng, Lão, Mặc; nhất là Khổng học luôn áp đảo và được giới vua chúa quan lại đưa lên hàng độc tôn nên mọi học thuyết khác đều phải bị lùi bước và Khổng giáo độc tôn trở nên ngất ngưỡng như một sự trấn áp, khiến tư tưởng văn học Trung Hoa suốt trên 20 thế kỷ chỉ đứng khựng trong sự lụi tàn dần mà không có tiến hóa khai phóng vì đánh mất sự tự do cần thiết, đánh mất sự bình đẳng liên đới và chia sẻ với mọi tư tưỏng học thuật khác. Nếu có thì chỉ là những sự nhỏ giọt không khác các quốc gia độc tài và nhất là cộng sản ngày nay cho dù có thay đổi phần nào cấu trúc kinh tế theo hướng thị trường tự do nhưng tư tưởng và mọi học thuật chính trị vẫn luôn bị thể chế kềm tỏa trong vòng độc tài toàn trị.
 
Một lục đia rộng lớn Trung Hoa trong qúa khứ đã chia làm hai miền Hoa Nam và Hoa Bắc, các tỉnh phía nam như Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây đều thuộc đất Bách Việt ngày xưa và có giòng huyết thống Sở, Việt, Thái. Phía Nam nhiều mưa và nhiều sông ngoài luôn ngập nước nên người dân nơi đây  xử dụng các phương tiện giao thông bằng thuyền bè rất tài tình, trái lại người Hoa Bắc rất dở về đi thuyền mà chỉ giỏi về cởi ngựa, một sở trường mà phần lớn tổ tiên người Hoa Bắc có chung huyết thống du mục như dân Mông Cổ nên họ có biệt tài chiến đấu trên lưng ngựa rất giỏi. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu “Bắc nhân kỵ mã, Nam nhân thừa thuyền’’ là nhắc đến sở trường và sở đoản giữa Bắc Nam là thế.
 
Vua chúa các triều đại Hạ, Thương, Chu, Tần, Hán, Đường  đều là người Hoa Bắc nên hẳn nhiên phải sở trường về mọi kỷ thuật chiến đáu trên lưng ngựa. Nói như Hán Cao Tổ “Ta đây ngồi trên lưng ngựa mà được thiên hạ’’. Sơ lược qua như thế để thấy rõ những nét tổng quát về nguồn gốc và qúa trình lịch sử của chế độ quân chủ chuyên chế Trung Hoa luôn đi cùng với ý hướng bành trướng sự cai trị trên đất liền hơn là mạo hiểm ra ngoài biển khơi, mở rộng ngành ngư nghiệp, hàng hải và chú trọng vào sự phát triển Hải quân.
 
Tâm lý sợ biển và sợ sóng cúa người Hoa Bắc rất rõ nét qua chứng minh suốt chiều dài lịch sử nước Tàu mà chi có mỗi một  nhân vật Trịnh Hoà dưới triều Minh Thành Tổ là thấy được tầm quan trọng việc thám hiểm đại dương. Trịnh Hoà (Zheng He) tên gọi được Hoàng tử Chu Đệ, tức vua Minh Thành Tổ sau này đặt cho trong lúc còn làm người hầu cận trong nhà, Trịnh Hòa rất có công giúp Chu Đệ  đoạt được ngôi vua của người cháu là Chu Doãn Văn, tuy đoạt được ngôi nhưng vua Doản Văn đã đào thoát, nghe đồn đã chạy về hướng các nước Đông Nam Á nên Minh Thành Tổ mới sai Trịnh Hòa chỉ huy các binh thuyền đi về hướng các nước Đông Nam Á tìm kiếm tung tích vua Doản Văn. Theo các sử liệu Tây Phương thì xa nhất là chuyến đi lần thứ 7 sau cùng đến quần đảo Zanzibar và ghé thăm các nước nằm dọc bờ biển Đông Phi Châu, nói chung trong bảy chuyến hải trình các vùng duyên hải lớn như Ấn Độ Dương vịnh Ba Tư (Persan Gulf), Hồng Hải (Red Sea) đều đã đi qua và cũng đã từng hành hương đến thánh địa Hồi giáo La Mecque (Mecca). Ngoài ra không có chuyến hải trình nào đến châu Mỹ cả như một số người Tàu lắm tưởng tượng vẻ vời tự đề cao những chuyện không có, chỉ nhìn vào dấu vết lịch sử để lại trong những cuộc hải trình cũng như những phương tiện di chuyền, thời gian và những thế biển hiểm nghèo không thể khắc phục được khi muốn vưọt Đại Tây Dương hay Thái Bình Dương đến châu Mỹ bằng hai ngã đều không phù hợp với thời gian, phương tiện và khả năng lúc đó.
 
 
Sau những hải trình xa xôi của Trịnh Hòa 1433, nước Tàu lại trở về ngủ yên với giấc mơ đại lục, để lại sự ngẩn ngơ kinh ngạc cho mọi người, không hiểu vì sao lại ngưng bặt hẳn những chuyến thám dương khác. Những yếu tố rõ rệt nhất về việc ngưng bặt này thật ra không có gì khó hiểu cả vì bởi những lý do sau.
 
Trung Hoa là  một  nước lớn luôn có sự tranh chấp nội loạn kỳ thị phân chia  giữa  nhiều sắc tộc, nhiều ngôn ngữ, nhiều địa phương  mà vua chúa các triều đại Hạ, Thương, Chu, Tần, Hán, Đường  đều là ngươì Hoa Bắc nên  nổi bận tâm chính vẫn là tìm cách thiết lập một đế chế trung ương tập quyền lên mọi phần đất mà Hán tộc đã chiếm đưọc, với sở trường “Bắc nhân kỵ mã’’ luôn là một việc chính yếu nhất, nên tư tưởng chính trị đại lục luôn là một sách luợc không thay đổi qua nhiều triều đại trong suốt  chiều dài lịch sử bành trướng của Hán tộc.
 
Tâm lý  sợ sóng gío biển khơi của đa  số người Hoa Bắc  được thể hiện  qua  các triều  đại cho thấy việc  thám hiểm đại dương không phải là  sở trường  và  cũng không có những  chính sách  khuyết  khích nguời dân đến lập nghiệp tại các hải đảo xa xôi, trái lại triều đình luôn coi các hải đảo là nơi tụ tập của các nhốm giang hồ cướp biển, cộng tác với các bang hội phản loạn bị truy nã trong lục địa, chạy ra hải đảo chiêu tập binh sĩ  tìm cách lật đổ triều đình.
 
Tiếp đến là tư tưởng văn hóa Khổng giáo gò bó quanh chữ hiếu khi cha mẹ còn thì con cái không được đi lập nghiệp ở nơi xa, đã tạo nên tâm lý nhút nhát, bó buộc mọi thế hệ thanh niên quanh quẩn trong pham vi gia đình, sống bám vào cha mẹ, không tinh thần tự lập và lòng can đảm đi khai phá những chân trời, thế giới có những phần đất hứa hẹn nơi xa, nói chi là ra đến biển khơi muôn trùng sóng gió. Chữ nhân, chữ hiếu trong đạo Khổng chỉ để đề cao đức sáng trong nội tâm con người mà không cần phải tìm kiếm đâu xa, khi nghe tiếng nhân ái, hiếu đức thì mọi người nơi nơi sẽ tìm tới kết bạn, bái sư…như thế là thu phục được nhân tâm, về đời sống người thường muốn trở thành thánh nhân là như thế, còn một ông vua nếu có đức sáng thì bá quan văn võ đều thần phục, các nước nhỏ nơi xa đều lần lược sẽ kéo tới xin phong Vưong và làm chư hầu. Việc này được thể hiện qua câu nói trong văn hóa cung đình như sau.
 
Tọa pháp trung cung triều Tứ Di.
 
Tư tưởng chính tri đại lục kéo dài nhiều ngàn năm, ngoại trừ một thời gian ngắn dưới triều Minh Thành Tổ, Trung Hoa lại luôn thu mình trở về truyền thống đại lục cố hữu cho đến hết cuối thế kỷ 19. Nhất là dưới triều đại nhà Thanh, Trung Hoa phải chịu những ô nhục khi các cường quốc thực dân bành trướng về mặt đại dương tại châu Âu kéo bầy tới yêu sách Thanh triều mở cửa giao thương, giới hạn quyền cai trị của triều đình và thiết lập các tô giới dưói quyền cai trị của các nưóc Âu châu bành trướng về mặt đại dương này, kể cả nước Nhật mà  Trung Hoa luôn coi như Di Dịch da vàng ngoài mặt biển đã sớm canh tân hóa đất nước, hiện đại hóa quốc phòng, quân đội và Hải quân cũng đã nhãy vào dự phần chiếm đóng Trung Hoa.

Nhiều thế kỷ phát triển hàng hải, bành trướng sức mạnh hải quân để làm chủ mặt biển đả giúp cho các nước Tây Phương trở thành cường quốc. Sự việc xâm chiếm thuộc đia khởi đi sau thời kỳ Magellan vào đầu thế kỷ 16, người Portugal nhận chức thủy sư  Đô đốc dưới triều vua Tây Ban Nha, dẫn 4 chiến hạm khởi hành từ cửa biển Seville đi vòng quanh thế giới qua khăp các đại dương, đó cũng là lúc các cường quốc Tây Phương với sức mạnh hải quân đã thay phiên nhau qua nhiều thế kỷ đi xâm chiếm thuộc địa và tranh quyền bá chủ khắp nơi kéo dài cho đến sau thế chiến thứ 2 chấm dứt, các cuờng quốc Tây Phương mới dần trao trả độc lập lai cho các quốc gia đã bị đô hộ.


Voyage of Columbus, da Gama and Magellan

Trung Hoa, một nưóc nhiều dân, đất rộng và có một nền văn hóa ảnh hưởng rộng khắp cỏi Á Đông, suốt thế kỷ 19 và 20 cũng đã phải chịu những ô nhục như các nước nhỏ khác đã từng bị các cường quốc đến xâu xé, đô hộ. Ngày hôm nay Trung Hoa đã biết mở mắt nhìn ra đại dương. Người Tàu chắc hẳn chưa được tiếng là những người có tài đi biển, bởi vì lịch sử truyền thống chính trị đại lục đã cho ta biết như thế.
 
Phần Việt Nam chúng ta thì sao? tài chèo thuyền, đi biển, đánh trận trên mặt nuớc có phải là sở trường của dân ta không. Mở đầu thời kỳ tự chủ Ngô Quyền đã đánh trận trên sông Bạch Đằng. Thời nhà Trần cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, tầm quan yếu vẫn là đối trận với quân Nguyên trên mặt sông cũng như trên mặt biển, cắt đứt quân lương và dụ địch vào trận thủy chiến Bạch Đằng, đến thời vua Quang Trung thì thủy quân lại được vua rất coi trọng, hàng vạn quân Xiêm đã bị chôn vùi nơi các dòng sông Rạch Gầm, Xoài Mút, Rạch Dừa…Những lần nam chinh bắc chiến, thủy quân vẫn là chủ lực chính trong cuộc đổ quân và tiếp viện, những danh tướng như Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Tuyết, Võ Văn Dũng, Trương Văn Đa v.v…ngoài tài chỉ huy đánh trận địa chiến, còn chỉ huy cả những trận thủy chiến. Không phải vô cớ mà danh từ Đô Đốc được trân trọng gắng liền với danh xưng của các vi tuớng. Nghĩa quân Tây Sơn xuất phát từ Bình Định là vùng tiếp giáp với núi rừng An Khê và vùng duyên hải Quy Nhơn ngày nay, và trong trận đánh mở màng đầy ly kỳ độc đáo trong việc chiếm thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc đã tự trói mình đầu hàng trong lòng khung củi lớn, để đến nữa đêm phá củi, mở thành cho nghĩa quân tràn vào chiếm thành là điều khó ai có can đảm và mưu trí có thể làm được như thế. Quy Nhơn có một gía trị chiến lược quan trong vì đó là nơi “tranh địa“. Nhà Tây Sơn dựng nghiệp khi Quy Nhơn còn, và mất nghiệp khi Quy Nhơn mất. Một vùng biển trọng yếu như thế chắc hẳn các danh tướng thời Tây Sơn đều phải thông thạo thủy chiến và trân trọng với danh xưng Đô Đốc.
 
Từ Quảng Ngải đến Quy Nhơn, Đà Nẳng hay Nha Trang đều tương xứng  với tầm nhìn ra Hoàng Sa và Trường Sa, trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Qúy Đôn ghi Hoàng Sa và Trường Sa thuộc tỉnh Quảng Ngải, Trong Đại Nam Thống Nhất Toàn Đồ hoàn thành năm 1838 đều vẽ hai quần đảo này thuộc lãnh thổ Việt Nam. Nhiều cuộc khảo sát địa lý và tài nguyên ở thế kỷ 17 đều đã ghi chép trong các bản đồ cổ. Dựa theo những bằng chứng lịch sử cùng với những hiệp ước ký kết giữa Việt Nam với nhà Thanh, Pháp đã đại diện cho VN trong những chính sách đối ngoại bang giao quốc tế và đã hành xử chủ quyền trên các quần đảo này, như thế đủ xác định Truờng Sa và Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ngoài những dữ kiện lịch sử, Việt Nam còn hội đủ cả mọi điều kiện về chủ quyền hải phận và các đảo dựa theo công ước quốc tế về nguyên tắc thềm lục đia của Liên Hiệp Quốc.
 
Bản đồ Thái Bình Dương
 
Trở lại hiện tình đất nước  Việt Nam đang có cuộc tranh chấp với Trung Cộng về chủ quyền hải phận và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là cuộc tranh chấp an nguy lên chiến lược quốc phòng, kinh tế với ngư nghiệp, hải sản và tài nguyên dầu khí, số tổng sản lượng quốc gia (GDP) này đã chiếm trên phân nữa và còn vượt cao hơn nữa với đà phát triển kỹ nghệ hóa. Nhưng khốn thay quốc phòng và kinh tế mặt biển sẽ không bao giờ đạt kết qủa tốt đẹp khi Trung Cộng không bao giờ rời bỏ tham vọng chiếm cứ Biển Đông, ngoại trừ một nước Trung Hoa với sự lãnh đạo của một đảng độc tài chuyên chế và toàn trị hiện tại bị bại trận và bị quốc tế cô lập như Nhật, Đức trong qúa khứ vì tham vọng đế quốc thực dân muốn thống trị thế giới bị tan rã.
 
Từ ngữ “hợp tác toàn diện“ không có nghĩa gì trong liên hệ bang giao quốc tế. Hợp tác là vấn đề có qua có lại chứ  có phải nhắm mắt lìa đời rồi viết di chúc giao hết gia tài lại cho người khác đâu, thế mà giới cầm quyền như Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết…đi tới đâu cũng nhắc đi nhắc lại từ ngữ “hợp tác toàn diện“ Từ ngữ này có lần  Bắc Kinh đã nặng ra “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hưóng tới tương lai.“ Với chính sách thực dân đế quốc kiểu mới, Bắc Kinh muốn chiếm lĩnh biển Đông vì đói nguồn dầu khí cung cấp cho nền kỹ nghệ hiện tại thì làm gì có chuyện đẹp như trong mơ, khuông đúc ra 16  chữ vàng kể trên rồi đem treo đầu gường ngắm chơi mà tưỏng chừng như thực! trừ khi nước Tàu chịu gôm mọi cơ sở kỹ nghệ sản xuất lại bỏ xó thành những đống sắt vụn, một việc làm không hề có được, hơn nữa tham vọng trở thành một siêu cường kinh tế và quân sự thì việc kiểm soát  Biển Đông với những hải trình mà Trịnh Hòa ngày xưa đi qua, nay đang trở thành huyyết mạch với nguồn dầu khí từ Trung Đông vận chuyển qua eo bể Melaka (Malacca, Malaysia) về lục địa Trung Hoa mới nuôi sống kinh tế, và vũ trang quân sự, thế thì dù trời có sập, Bắc Kinh cũng không bao giờ từ bỏ tham vọng này. Riêng những người cầm quyền hiện tại ở Việt Nam nghĩ gì mà cứ lập lại câu “hợp tác toàn diện“thay vì biết tự trọng chỉ nên nói những câu như , hợp tác nhiều mặt, hợp tác chân thành v.v…Chứ đừng bao giờ ngây thơ đến mức lập lại lời di chúc mà Bắc Kinh đã viết ra cho giới cầm quyền các nước nhược tiểu đọc, nhằm cố lôi ta vào quỷ đạo kiểm soát của Bắc Kinh, thậm chí bị lừa giao hết “toàn diện“ tài sản quốc gia, trong đó có Biển Đông vào tay con khủng long đói khác. Chính trị về bang giao quốc tế, chứ không phải là di chúc để lại gia tài của kẻ hấp hối, mong rằng những người cầm quyền Việt Nam hiện tại biết tự trọng và có lòng dũng khí có thể coi nhẹ tấm thân ô trọc của mình mà đứng thẳng không luồng cuối Bắc Triều.

Tàu chiến Trịnh Hòa cặp bến Đà Nẳng từ ngày 18 đến 22-11 vừa qua có phài là sự răng đe giới cầm quyền Hà Nội hiện tại không ? Có phải muốn nhắc khéo với Hà Nội rằng Trường Sa, Hoàng Sa là của Trung Hoa. Người biết chuyện thì đau lòng nhưng không hề sợ hải, trái lại kẻ ương hèn có tư tưởng thần phục ngoại bang thì hí hởn vui mừng vì nhờ quan thầy Bắc Kinh mà uy danh quyền hành của họ được thêm bảo chứng. Người Tàu chịu ảnh hưởng tư tưởng thần quyền rất nặng, bởi thế họ tưởng tượng đến những cảnh giới thiên đường địa nguc mà tưởng chừng như thực rất tài tình, những chuyện như tề thiên , ngọc hoàng thượng đế  nơi có cảnh sống hoan lạc không khác cung đình có vua quan cai trị như ở trần thế, sự tưởng tượng này tạo nên rất nhiều các tiểu thuyết dã sử Trung Hoa đầy mập mờ hư thực. Điều này phải kể đến lịch sử những chuyến hải trình của Trịnh Hòa, người Tàu cũng đã tưởng tượng thêm việc đến châu Mỹ, tưởng tượng đến Hoàng Sa và Trường Sa, và còn vẽ ra bản đồ lưỡi bò hay lưỡi rồng gì đó với những tài liêu lịch sử đầy mơ hồ chỉ làm lộ ra thực chất ngụy tạo, bởi vì ai nghiên cứu qua lịch sử Trung Hoa đều biết các vua chúa qua nhiều triều đại không hề rời xa truyền thống chính trị lục địa.  Thực ra thì trong 7 chuyến hải trình của Trịnh Hòa, với kỹ thuật đi biển vào thế kỷ 15 phần lớn phải dựa vào hải lưu và gío mùa cốt sao cho thuận buồm xuôi gío, để phòng tránh mọi rủi ro bảo tố, Trịnh Hòa đã mon dọc theo bờ biển mà đi thôi, cho dù có đi qua Hoàng Sa và Trường Sa (tưởng tượng thôi!) hay cả ngàn quần đảo tại Sumatra mà Trịnh Hòa thực sự có ghé qua nhiều nơi, nếu như đều bắt quàng cho là thuộc chủ quyền Trung Hoa thì chắc mọi người sẽ chỉ ngã lăng ra cười khi nhắc tới… Từ việc ghé qua đến việc thiết lập chủ quyền hoàn toàn khác xa.
 
Trung Hoa hiện tại không mạnh như nhiều người lầm tưởng, sở dỉ trong qúa khứ qua nhiều triều đại luôn giữ truyền thống chính trị đại lục là vì mâu thuẩn chủng tộc, ngôn ngữ cộng với những vua chúa đều là người Hoa Bắc chỉ mong áp đặt nền cai trị trung ương tập quyền và Hán hóa mọi sắc dân khác, tìm cách dẹp tan mọi sự chống đối cũng đã làm cho triều đình khốn đốn, nên mọi sách lược dài lâu đều phải dồn vào việc “bình thiên hạ“ ở chính ngay nội địa, thế thì còn lòng dạ đâu tính đến chuyện hải ngoại, mở rộng bờ cỏi ra các hải đảo.  Nội loạn luôn âm ỉ ngấm ngầm  trong xã hội Trung Hoa, cho đến thế kỷ 21 này chắc vẫn còn đó, những vấn nạn chủng tộc về sự áp đặt, Hán hóa luôn bị các sắc dân như Mông, Mãn, Hồi, Tạng v.v… khước từ. Nền chính trị độc tài toàn trị, mất dân chủ, tự do và nhân quyền cũng là nguồn góc bấc ổn xã hội. Rồi đây Trung Hoa có trở thành cuờng quốc lục địa và đại dương không, hay rồi như Trịnh Hòa khi xưa, chấm dứt sau mấy mươi năm xiển dương uy thế của Hán tộc ra hải ngoại, sau đó quay về lại truyền thống chính trị đại lục cố hữu vì những bất ổn xã hội, kinh tế suy thoái, văn hóa sơ cứng với nền chính trị độc tài đang phá hủy nhân quyền, đánh mất sự tự do và bình đẳng cùng với mọi cơ hội để người Trung Hoa xây dựng phát triển trong hòa bình, tiến theo trào lưu tiến hóa chung của nên văn minh nhân loại.
 
Nền chính trị Trung Hoa hiện tại cho thấy rõ đang gây mâu thuẫn tranh chấp khắp nơi với các nước láng giềng chung quanh. Chính trị không còn là mục tiêu tối hậu để xây dựng tự do, dân chủ và hòa bình dài lâu chung thì nội loạn và ngoại hoạn không sớm thì muộn cũng sẽ xảy ra cho đất nước Trung Hoa. Đó là hậu qủa của những kẻ cầm quyền chỉ biết dựa vào sức mạnh quân sự và nền chính trị độc tài để áp chế người dân và đi ngược lại văn minh thời đại.

@Phạm Thiên Thơ

NASA cho phi thuyền đâm xuống Mặt Trăng

Tin tức / Ðời sống

Hình vẽ kỹ thuật số mô phỏng chiếc phi thuyền LADEE do NASA cung cấp.
Hình vẽ kỹ thuật số mô phỏng chiếc phi thuyền LADEE do NASA cung cấp.

Rosanne Skirble
Một phi vụ robot tới mặt trăng đã được sắp đặt để đâm xuống bề mặt của vệ tinh này. Trước khi vụ đâm xuống được lập trình sẵn diễn ra, các nhà khoa học đã thu thập dữ liệu từ phi thuyền, được gọi là LADEE, tên viết tắt Anh ngữ có nghĩa là Phi thuyền Thăm dò Môi trường bụi và khí quyển mặt trăng.

LADEE đã bay trên quỹ đạo mặt trăng từ tháng Mười. Phi thuyền thăm dò hình ống này có kích cỡ khoảng một máy bán hàng tự động với những tấm hứng năng lượng mặt trời gắn vào bên sườn nó. Quản lý dự án này, ông Butler Hine, làm việc với Trung tâm Khảo cứu Ames của cơ quan NASA nói rằng, LADEE bắt đầu thực hiện các cuộc đo lường bên trên bề mặt của mặt trăng 250 kilomet. Ông cho biết:

“Và khi chúng tôi xuống thấp hơn trong quỹ đạo khoa học, mật độ của bụi ngày càng tăng.”

Như vậy, tất cả bụi đó đến từ đâu? Và phi thuyền di chuyển chung quanh mặt trăng như thế nào? Bay trên một độ cao từ 20 tới 50 kilomet, dàn công cụ của LADEE đã thực hiện khoảng 700.000 lần đo lường để trả lời cho những câu hỏi đó. Ông Hine cho biết:

“Một trong những thứ mà chúng tôi thấy là nó gần như là một tấm màn trùm quanh mặt trăng và một lớp bụi được tạo ra bởi những tác động của thiên thạch đối với mặt trăng. Nó tựa như một làn mưa liên tục xuống mặt trăng và như vậy nguồn bụi dường như là một diễn biến liên tục.”

Ông Hine nói rằng mặc dù một đài quan sát đặt trên mặt trăng sẽ phải giải thích cho lớp bụi trên thiết bị quang học, bụi sẽ không gây ra trở ngại nào cho phi thuyền hay hoạt động của con người trên mặt trăng:

“Và những gì ta thấy cho tới nay là mặc dù có nhiều bụi, ở những mức độ cao, chúng ta không thấy dấu hiệu nào là mức bụi này gây tai hại cả. Chúng ta không thấy bất cứ tình trạng giảm phẩm chất nào trong hệ thống phi thuyền của chúng ta, và những mức độ bụi mà chúng ta phát hiện không gây ra một nguy hiểm nào đáng kể nào cho các phi vụ tương lai.”
 
Hình vẽ kỹ thuật số mô phỏng phi thuyền LADEE bay trên bề mặt mặt trăng
Hình vẽ kỹ thuật số mô phỏng phi thuyền LADEE bay trên bề mặt mặt trăng
 
LADEE phát hiện dấu vết của neon, nhôm, và các chất khác. Nó cũng đã trắc nghiệm thành công một hệ thống truyền thông tin băng tần rộng giữa trái đất và mặt trăng. Ông Hine nói rằng các thiết kế phi thuyền không gian mới của LADEE có thể được tái tạo trong một loạt các phi vụ:

“Phi thuyền này có thể được cấu tạo theo các phương cách khác nhau tùy thuộc vào loại phi vụ. Thí dụ mẫu thiết kế phi thuyền này có thể mang hình dạng của một vệ tinh trên quỹ đạo mặt trăng như LADEE. Nó có thể được thiết kế cho những môi trường ở bất cứ đâu giữa quỹ đạo Trái Đất hay quỹ đạo Sao Hỏa. Thậm chí nó thể được thiết kế như một hình thể phi thuyền đáp xuống mặt trăng. Như vậy ta có thể lấy một số module phi thuyền phối hợp chúng lại với nhau theo cách có thể đáp xuống mặt trăng.”

Trong số những thời khắc căng thẳng mà Đài Kiểm soát Phi vụ tại California trải qua là một sự kiện nguyệt thực xảy ra vào những ngày chót trong phi vụ của LADEE, khiến tia sáng mặt trời bị che khuất trong bóng tối. Trong bốn giờ đồng hồ, phi thuyền này phải lệ thuộc vào bình điện của nó để bảo vệ hệ thống khỏi bị đông lạnh. Ông Hine nói:

“Căn bản là chúng tôi đã chuẩn bị trước cho phi thuyền khi gặp nguyệt thực, chúng tôi tắt các thiết bị khoa học để bảo tồn điện. Chúng tôi tắt và mở các máy sưởi khác nhau và sắp xếp cho chúng thay phiên hoạt động để bay qua giai đoạn nguyệt thực.”

Ông nói tiếp:

“Khó khăn là không có chút điện nào được tạo ra và chúng ta cần phải có nhiều điện hơn trong giai đoạn nguyệt thực để giữ cho mọi thứ được ấm.”

Nhưng LADEE không cần nhiều điện. Phi thuyền này được lập trình để tự hủy ở phía xa của mặt trăng, cách xa những địa điểm lịch sử nơi các phi hành gia đã đáp xuống trước đó. Phi thuyền này đã tiếp tục thu thập và gửi dữ liệu trong hai ngày cuối cùng của nó, khi chỉ còn cách bề mặt mặt trăng hai kilomet, trên đường tới chỗ đâm xuống theo kế hoạch đã định.
 


Nhà văn Colombia Gabriel Garcia Marquez qua đời

Thời sự: Thứ sáu 18/04/ 2014
    
Nhà văn Gabriel Garcia Marquez: Ảnh chụp ngày 07/01/1999, tại San Vicente del Caguan, Colombia
Nhà văn Gabriel Garcia Marquez: Ảnh chụp ngày 07/01/1999, tại San Vicente del Caguan, Colombia
REUTERS
Thanh Hà
        
Giải Nobel Văn học đầu tiên của châu Mỹ La Tinh Gabriel Garcia Marquez qua đời chiều ngày 17/04/2014, thọ 87 tuổi. Là một nhà báo nổi tiếng, trước khi trở thành nhà văn, trong hơn 70 năm sự nghiệp cầm bút, Marquez được coi là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất của thế kỷ XX, là người có công nhiều nhất trong việc đưa những tác phẩm bằng tiếng Tây Ban Nha ra thế giới.
 
« Trăm Năm Cô Đơn », « Tình Yêu Thời Thổ Tả », « Tướng Quân Trong Mê Hồn Trận », « Ký Sự Về Một Cái Chết Được Báo Trước » hay « Hồi Ức Về Những Cô Gái Điếm Buồn Của Tôi » là những tác phẩm để đời của Gabriel Garcia Marquez. Chỉ riêng « Trăm Năm Cô Đơn » sáng tác năm 1967, đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng và đã bán ra gần 50 triệu ấn bản. 
 
Hay tin giải thưởng Nobel Văn học 1982, Tổng thống Colombia Juan Manuel Santos tuyên bố ba ngày quốc tang. Qua mạng Twitter ông viết : « Sự ra đi của tác giả Trăm Năm Cô Đơn, người con vĩ đại nhất mọi thời đại của Colombia để lại Một ngàn năm cô đơn và đau buồn cho đất nước ». Marquez được mệnh danh là « cha đẻ của trường phái hiện thực huyền ảo ».
 
Không chỉ là một người có tài kể chuyện xuất chúng, Marquez chinh phục độc giả nhờ lối viết hiện thực, lồng trong bối cảnh lịch sử, chính trị, của đất nước, của châu Mỹ La Tinh, của thời cuộc. Đồng thời những tác phẩm của ông có thể đọc như một bài ngụ ngôn, trong đó cái « thực » luôn kèm cả với những truyền thuyết dân gian, những mê tín dị đoạn, với những lời nguyền, cộng thêm với một chút gì huyền bí. Marquez được tôn vinh và làm mê hoặc cả thế giới do ông là một trong những nhà cầm bút hiếm hoi thành công trong việc đưa lịch sử, văn hóa, đời sống không chỉ của một dân tộc mà là của cả châu Mỹ La Tinh đến với độc giả.
 
Sinh năm 1927 tại Aracataca, một ngôi làng hẻo lánh ở miền bắc Colombia, Marquez là con cả trong một gia đình có tới 11 anh em. Cha mẹ ông sớm đi nơi khác kiếm sống, Marquez chủ yếu được ông bà nuôi dưỡng. Làng Aracatata cũng như bà ngoại ông, với cá tính mạnh và một chút gì huyền bí, với hình dáng hơi giống một bà phù thủy, chính là nguồn cảm hứng để Marquez sau này tạo ra bối cảnh cho tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông : « Trăm Năm Cô Đơn », cho nhân vật nữ chính trong gia đình Buendia. 
 
Nhưng bên cạnh sự nghiệp văn chương đồ sộ, Marquez còn là một nhà báo. Chính tác giả của « Ký Sự Về Một Cái Chết Được Báo Trước » từng nói : « Làm báo là cái nghề đẹp nhất trần gian ». Từ giữa thập niên 1940 Marquez đã bước vào nghề, cộng tác tờ El Espectador, rồi điều hành tạp chí Venezuela Grafica tại Caracas. Sau cuộc cách mạng Cuba, Gabriel Garcia Marquez là một người rất hâm mộ nhà lãnh đạo Fidel Castro, ông đã hợp tác với hãng thông tấn Prensa Latina tại La Habana. Một thời gian sau, Marquez rời khỏi Cuba về định cư hẳn tại Mêhicô và cũng tại đây, ông đã đóng cửa với thế giới bên ngoài trong 18 tháng liền, để hoàn tất tác phẩm để đời « Trăm Năm Cô Đơn ».
 
Nguồn: http://www.viet.rfi.fr

Nhật Bản quân sự hóa một hòn đảo gần Senkaku/Điếu Ngư

Thời sự: Thứ sáu 18/04/ 2014    
 
 
Thụy My
 
Theo hãng tin Reuters hôm nay 18/04/2014, Nhật Bản sẽ triển khai khoảng một trăm quân nhân và radar tại đảo Yonaguni ở cực tây nam nước Nhật, cách quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư chỉ có 150 km. Sự kiện này có thể gây căng thẳng trong quan hệ với Trung Quốc.
 
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Itsunori Onodera hôm nay đến hòn đảo nhiệt đới có 1.500 dân nằm ở phía đông Đài Loan, hiện nay có hai cảnh sát bảo vệ, để đặt viên đá đầu tiên để xây dựng một đồn canh.
 
Việc quân sự hóa ở quy mô nhỏ hòn đảo Yonaguni nằm trong khuôn khổ các nỗ lực liên tiếp, để cải thiện công tác phòng vệ và giám sát các lãnh thổ nằm ở những vùng hẻo lánh nhất của Nhật Bản. Bộ trưởng Onodera giải thích : « Chúng tôi đã quyết định triển khai một đơn vị bộ binh trong nỗ lực củng cố giám sát khu vực tây nam. Chúng tôi kiên quyết bảo vệ đảo Yonaguni, là một phần lãnh thổ quý giá của Nhật ». 
 
Đảo Yonaguni nằm gần lục địa Trung Quốc hơn là các đảo chính của Nhật Bản. Việc bố trí lực lượng ở đây sẽ giúp theo dõi chặt chẽ hơn các máy bay và tàu chiến của Trung Quốc di chuyển xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, do cả Tokyo và Bắc Kinh yêu sách chủ quyền.
 
Từ khi chính phủ Nhật mua lại ba trong số năm hòn đảo của Senkaku/Điếu Ngư từ một chủ tư nhân người Nhật vào tháng 9/2012, Bắc Kinh thường xuyên gởi tàu tuần duyên xâm nhập vùng biển này. Chỉ trong tháng Ba, các phi cơ tiêm kích Nhật đã phải cất cánh 415 lần – một con số kỷ lục - do sự hiện diện của máy bay Trung Quốc trong không phận của mình. 
 
Lễ đặt viên đá đầu tiên của Bộ trưởng Quốc phòng Nhật tại đảo Yonaguni diễn ra bốn ngày trước chuyến viếng thăm của Tổng thống Mỹ Barack Obama, đến Tokyo gặp gỡ Thủ tướng Shinzo Abe. Đây là chuyến công du Nhật Bản đầu tiên của một Tổng thống Hoa Kỳ kể từ 18 năm qua.
 
Nguồn: http://www.viet.rfi.fr

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014

Nhật Bản ngồi trên ‘núi vàng’ năng lượng chưa khai thác

Thời sự: Thứ năm 17/04/ 2014
      
Tàu khoan đáy biển Chikyu được Nhật Bản dùng để tìm khí mêtan hydrat
Tàu khoan đáy biển Chikyu được Nhật Bản dùng để tìm khí mêtan hydrat
DR
Mai Vân
        
Cơ quan Năng lượng Nhật Bản vừa loan báo việc tiến hành một chương trình thăm dò mới, tìm khí mêtan hyđrat (méthane hydrate) tại vùng Biển Nhật Bản ở phía đông nước Nhật, và vùng phía Đông Nam đảo Hokkaido ở miền Bắc. Công cuộc thăm dò được khởi động vào hôm thứ Ba, 15/04/2014. Đây là một loại khí rất dồi dào ở dưới đáy vùng biển bao quanh Nhật, với trữ lượng có thể vượt mức 100 năm sử dụng. Tokyo hy vọng là nguồn năng lượng mới đó có thể giúp họ thoát được khó khăn năng lượng hiện nay.
 
Sau tai nạn ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima, Nhật Bản đang phải trở lại thời kỳ lệ thuộc nặng nề vào năng lượng hóa thạch mà Nhật Bản không có và phải nhập khẩu hầu như toàn bộ năng lượng cần thiết. Đây là một gánh nặng to lớn cho một nền kinh tế đang trên đà hồi phục.
 
Khí mêtan hyđrat – đôi khi được gọi là còn gọi là ‘nước đá cháy’ hay ‘băng cháy’ - là một dạng khí mêtan bị kẹt trong một cấu trúc tinh thể nước, tạo thành một chất rắn tựa như băng, ổn định ở điều kiện nhiệt độ thấp và áp suất cao, và phần lớn được tìm thấy bên dưới lớp băng vĩnh cửu và những tầng địa chất sâu bên dưới lòng đại dương.
 
Loại khí này đã được phát hiện ở nhiều vùng chung quanh Nhật Bản, nhưng nguồn năng lượng này đến nay vẫn không được khai thác do những nguyên nhân vừa kỹ thuật, vừa kinh tế.
 
Tuy nhiên, sau thảm họa hạt nhân tại nhà máy Fukushima vào tháng 3 năm 2011, hầu như đánh gục ngành điện nguyên tử tại Nhật, buộc nước này phải cấp tốc nhập khẩu năng lượng hóa thạch như đầu hỏa và khí đốt thiên nhiên từ nước ngoài, Bộ Công nghiệp Nhật (Meti) đã nghĩ đến việc khai thác nguồn khí metan hydrat tiềm tàng của mình.
 
Một cuộc thăm dò đầu tiên đã được thực hiện vào tháng 6/2013 ở Biển Nhật Bản nhằm ước tính khối lượng khi metan nằm dưới đáy biển. Bên cạnh đó, các viện nghiên cứu tư nhân cũng nhập cuộc, thậm chí còn đi trước chính phủ một bước khi tiến hành công việc vẽ bản đồ những nơi có mỏ khí metan.
 
Cuộc thăm dò bắt đầu hôm 15/04 là bước tiếp theo, kết hợp một viện nghiên cứu khoa học quốc gia AIST, và các chuyên gia thuộc trường Đại học tư Meiji. Ngoài ra, từ đầu tháng 6 đến đầu tháng 7/2014, một chiến dịch thu thập mẫu cũng được dự kiến.
 
Những cuộc thăm dò kể trên nằm trong một kế hoạch rộng lớn hơn của Nhật Bản nhằm khai thác nguồn khí metan được dự kiến là sẽ chỉ thực hiện được sau năm 2020 mà thôi. Lý do, theo các chuyên gia được AFP trích dẫn, đó là vì Nhật Bản – dù là nước tiên tiến nhất trong lãnh vực này – nhưng cũng phải mất nhiều năm đề hoàn thiện công nghệ, kỹ thuật khai thác, cũng như nghiên cứu cách giảm chi phí vốn rất to lớn vì phải lấy khí từ dưới đáy biển khơi.
 
Hồi tháng 3 / 2013, giới nghiên cứu Nhật lần đầu tiên trên thế giới đã trích được khí metan được từ đáy biển, cách bán đảoAtsumi miền Trung Nam nước Nhật 80 cây số, ngay tại Thái Bình Dương. Trước đó vài năm, Canada cũng đã thử nghiệm cách trích xuất khí mêtan hydrat trên đất liền.
 
Trong lúc phải đối đầu với khó khăn năng lượng, Nhật Bản được cho là có thể đang ngồi trên ‘một núi vàng ‘ năng lượng : Vùng đáy biển ngoài khơi lãnh hải phía Nhật Bản chạy dài từ Shizuoka đến Wakayama, được xác định là có trữ lượng khí metan tương ứng với 10 năm nhu cầu về khí đốt của Nhật.
 
Tuy nhiên, theo giới nghiên cứu, trữ lượng ở đây không bằng ở vùng đang có cuộc thăm dò ở Biển Nhật Bản.
 
Tìm hiểu nguồn khí metan dồi dào chung quanh Nhật Bản, bà Chiharu Aoyama, một chuyên gia độc lập về các nguồn năng lượng, giải thích là loại khí này đặc biệt tập trung ở những nơi có độ động đất cao. Nhật Bản lại nằm ở nơi tiếp giáp 4 mảng kiến tạo của vỏ trái đất, cho nên hiện là nước phải chịu nạn động đất nhiều nhất hành tinh. 20% các vụ động đất hàng năm trên thế giới là xẩy ra tại Nhật.
 
Theo một số ước tính, Nhật Bản có thể sở hữu tổng cộng một lượng khí metan hydrat tương đương với một thế kỷ tiêu thụ - hay hơn nữa. Đây quả là một triển vọng rất tươi sáng vào lúc xứ Hoa anh đào hiện phải lệ thuộc vào năng lượng ngoại nhập, chiếm hơn 90% năng lượng tiêu dùng trong nước.
 

Hoa Kỳ và Nga đang rơi vào một cuộc Chiến tranh Lạnh Mới?

Thời sự: Thứ năm, 17/04/2014
 
Tổng thống Nga Vladimir Putin (trái) và tổng thống Barack Obama (phải) tại Hội nghị G20 Summit ở St. Petersburg 6/9/2013.
Tổng thống Nga Vladimir Putin (trái) và tổng thống Barack Obama (phải) tại Hội nghị G20 Summit ở St. Petersburg 6/9/2013.

Andre DeNesnera
Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Nga đã xuống tới mức xấu nhất kể từ khi Moscow sáp nhập bán đảo Crimea của Ukraine. Nhiều nhà phân tích tự hỏi liệu hai phía có đang trở lại một cuộc chiến tranh lạnh mới?

Cuộc Chiến tranh Lạnh “thứ nhất" đã kéo dài trong khoảng từ lúc Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt năm 1945 tới khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ năm 1991.

Ông Charles Kupchan làm việc tại trường Đại học Georgetown nói rằng, Chiến tranh Lạnh là một cuộc tranh đua giữa khối phương Tây do Hoa Kỳ lãnh đạo và khối phương Đông do Liên Xô lãnh đạo.

“Cuộc Chiến tranh Lạnh được xác định bởi sự tranh đua về ý thức hệ, một hệ thống cộng sản đối đầu với một hệ thống tư bản, một hệ thống độc đoán đối nghịch với một hệ thống dân chủ,” theo lời ông Kupchan. Ông nói rằng, “Và nó cũng được xác định bởi sự đối nghịch địa chính trị truyền thống, về sự thống trị của cả hai khối liên quan tới trung tâm công nghiệp quân sự cũng như những nước ủy nhiệm trong thế giới đang phát triển.”

Kể từ khi Liên Xô sụp đổ, những hồi ức về cuộc Chiến tranh Lạnh đã phai nhạt. Nhưng giờ đây lại có người nói tới một cuộc Chiến tranh Lạnh mới sau khi Tổng thống Nga Vladimir Putin sáp nhập bán đảo Crimea của Ukraine vào Nga.

Tổng thống Obama nói không có Chiến tranh Lạnh

Trong một bài diễn văn mới đây tại Brussels hôm 26 tháng Ba, Tổng thống Barack Obama bác bỏ ý niệm về một cuộc Chiến tranh Lạnh mới.

Ông nói, “Đây không phải là một cuộc Chiến tranh Lạnh khác mà chúng ta can dự vào. Rốt cuộc thì, không giống như Liên Xô, Nga không lãnh đạo một khối quốc gia nào cả, và cũng không có ý thức hệ nào cả.”

Tổng thống Obama cũng đã mô tả Nga như một "cường quốc cấp vùng đang đe dọa tới một số nước láng giềng kế cận – không phải vì thế mạnh mà là vì thế yếu.”

Ông Charles Kupchan đồng ý như vậy và nói rằng Nga không có địa vị của một cường quốc như trước đây họ đã từng có.

Ông Kupchan nói rằng, “Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Nga có hàng triệu binh sĩ sẵn sàng chiến đấu. Họ có một hải quân tầm vóc thế giới. Họ có các nước ủy nhiệm trên khắp thế giới. Đó không phải là một nước Nga như chúng ta có hiện nay. Nước Nga ngày nay có khoảng 750-800,000 binh sĩ sẵn sàng chiến đấu. Hải quân của họ là cái bóng buồn bã của những gì trước đây họ đã từng có. Nga có rất ít đồng minh trên thế giới và chính vì lý do đó, tôi nghĩ rằng một sự trở lại cuộc Chiến tranh Lạnh không thể có được - Nga không có những gì họ cần."

Các chuyên gia nói rằng hai phía đang rơi vào một cuộc Chiến tranh Lạnh

Nhưng ông Robert Legvold, Giáo sư Danh dự tại Trường Đại Học Columbia có một quan điểm khác.

“Tôi tin rằng chúng ta đang ở trong một cuộc Chiến tranh Lạnh mới. Đó không phải là quan điểm của đa số mọi người. Tôi nghĩ rằng hầu hết mọi người còn chần chừ khi nghĩ tới việc là chúng ta có thể lại rơi vào một điều gì đó rộng lớn, phức tạp và nguy hiểm, đặc biệt là với cái bóng của một trận chiến đấu quyết liệt bằng vũ khí hạt nhân như chúng ta đã có trong giai đoạn 50 năm trước đây.”

Ông Legvold nói rằng, một số đặc điểm cơ bản trong quan hệ của Liên Xô với phương Tây trong giai đoạn đó là đúng với quan hệ giữa Nga và Phương Tây ngày nay.

Ông nói rằng, “Trước hết, nếu như trong gần 20 năm qua, quan điểm lập lờ của Mỹ và phương Tây về Nga là Nga không phải bạn cũng chẳng phải thù mà đâu đó ở giữa – và người Nga cũng có cùng cái nhìn như vậy về Mỹ và phương Tây, thì giờ đây quan điểm đó đã biến mất,” ông nói. “Và giờ đây ta thấy hai phe không những coi nhau như đối thủ mà còn nói thẳng ra như vậy trong những bài diễn văn của giới lãnh đạo hay bình luận của giới chuyên gia.”

Quan hệ Hoa Kỳ-Nga ở mức xấu

Ông Legvold nói rằng một dấu hiệu nữa về cuộc Chiến tranh Lạnh là theo quan điểm của ông, các giới chức tại Washington và Moscow dường như đã từ bỏ ý kiến làm việc hướng tới mối quan hệ hợp tác khác biệt căn bản.

Theo ông Legvold, “Những giả định nền móng của việc 'tái khởi động' của chính phủ Obama chẳng hạn. Giờ đây chúng đã biến mất và đã được thay thế bởi ý niệm cho rằng điều chúng ta có thể hy vọng nhất vào lúc này là nhất thời, khá cụ thể, những giao dịch khá hạn chế mà có thể mang tính hợp tác, nhưng không phải là thứ gì đó có thể lên tới mức độ hợp tác, dẫn dắt chúng ta hướng tới sự cộng tác thật sự và bền vững.”

Nhiều chuyên gia tin rằng một quan hệ hợp tác thật sự và bền vững chỉ có thể đạt được với các nhà lãnh đạo mới ở Washington và Moscow.

Nguồn: http://www.voatiengviet.com

Thứ Tư, 16 tháng 4, 2014

Người tình trong bóng tối của Tổng thống Pháp Mitterrand


Ông François Mitterrand và người tình Anne Pingeot
Ông François Mitterrand và người tình Anne Pingeot (DR)
Đức Tâm
 
Vào tháng 11/1994, sau gần 14 năm tin đồn, cả nước Pháp cuối cùng phát hiện ra gương mặt của Mazarine, con gái ngoài giá thú mà Tổng thống François Mitterand vẫn giấu kín. Giờ đây, Mazarine đã trở thành một nhà văn, vậy mẹ của cô, bà Anne Pingeot, thì thế nào ?

Hai thập niên sau khi bức ảnh đầu tiên về mối tình bí mật của ông Mitterrand được công bố, vào đầu tháng Ba 2014, một cuốn sách ra mắt độc giả Pháp, kể lại số phận của Anne Pingeot, nhan đề « La Captive de Mitterrand – Tù nhân tình yêu của Mitterrand –», của tác giả David Le Bailly.
 
Ông Mitterrand cưới bà Danielle năm 1944 và họ có hai người con trai. Thế nhưng, đến năm 1960, Thượng nghị sĩ, cựu Bộ trưởng Tư pháp Mitterrand đã bị ngã gục trước cú sét đánh tình ái của một thiếu nữ tỉnh lẻ xinh đẹp, tóc nâu, 19 tuổi, Anne Pingeot. Ông không lạ gì cô gái này vì đó là con của một cặp vợ chồng người bạn. Mặc dù kém người tình tới 27 tuổi, Anne Pingeot vẫn bị mê hoặc và rất ngưỡng mộ sự hiểu biết văn hóa uyên thâm của ông Mitterrand. Lên Paris theo học về Nghệ thuật, Anne Pingeot gặp lại Mitterrand và từ đó, họ không rời nhau nữa.
 
Vào năm 1965, khi biết chồng ngoại tình, bà Danielle Mitterrand đã đe dọa, buộc ông phải lựa chọn giữa bà và cô nhân tình. Lúc đó, ông Mitterrand đã lưỡng lự, muốn làm lại cuộc đời với Anne Pigeot. Thế nhưng, cuối cùng, bà Danielle chấp nhập mối quan hệ ngoài giá thú của chồng để không phải ly di.
 
« Ông ăn chả, bà ăn nem », đến năm 1976, bà Danielle có nhân tình là một hướng dẫn viên thể thao, tên Jean.
 
Là một chính khách có tên tuổi của đảng Xã Hội, ông Mitterrand muốn giữ hình ảnh bề ngoài là có một gia đình bình thường, trong bối cảnh ông chuẩn bị ra tranh cử Tổng thống vào năm 1981. Vợ chồng ông bà Mitterrand đã thỏa thuận với nhau : Bà Danielle không đòi ly dị nữa, đổi lại, ông Mitterrand đồng ý để cho vợ sống cùng người tình trong căn hộ riêng của ông bà, ở phố Bièvre, quận 5, Paris.
 
Về phần mình, Anne Pingeot chấp nhận mối tình éo le và sẵn sàng từ bỏ sự tự do của một cô gái ngoài 20 tuổi, để chiều theo ý muốn của người tình, bởi vì ông Mitterrand rất hay ghen : Ông không thích cô quan hệ với những bạn trai cùng lứa tuổi.
 
Là người tình của một chính khách, Anne Pingeot không từ bỏ tham vọng nghề nghiệp. Năm 1973, cô tham gia dự án lập viện bảo tàng Orsay và trở thành một trong những chuyên gia có tên tuổi.
 
Tuy nhiên, có một ham muốn mà Anne Pingeot kiên quyết không bao giờ từ bỏ : Đó là có một đứa con với ông Mitterrand và ngày 18/12/1974, cô sinh hạ một bé gái, Mazarine Marie Pingeot, tại Avignon, miền nam nước Pháp.
 
Sáu năm sau, vào ngày 10/05/1981, ông Mitterrand trúng cử Tổng thống. Anne Pingeot đã khóc và sau này, bà cho biết : « Đó là một ngày tồi tệ nhất trong cuộc đời của tôi ». Bởi vì bà biết rằng, từ nay, mối tình của bà với Tổng thống Pháp trở thành một bí mật quốc gia, phải giữ kín.
 
Hai năm sau khi làm Tổng thống, vào năm 1983, ông Mitterrand mới đồng ý sống chung với Anne Pingeot để được gần gũi cô con gái Mazarine. Hai mẹ con bà Pingeot sống trong khu nhà kế cận, thuộc điện Elysée, rộng 250 mét.
 
Anne Pingeot là người có cá tính mạnh mẽ và có ảnh hưởng thực sự đối với Tổng thống Mitterrand. Được coi như một « Thứ trưởng » Văn hóa, dường như bà là người quyết định lựa chọn kiến trúc sư Ieoh Ming Pei, xây công trình kim tự tháp bằng kính ở sân điện Louvre.
 
Năm nay 71 tuổi, bà Pingeot đã về hưu và sống một cuộc đời giản dị. Người ta có thể bắt gặp bà đi xe đạp trên đường phố Paris. Kể từ khi ông Mitterrand qua đời, tháng Giêng năm 1996, hầu như bà Pigeot chưa bao giờ tới viếng mộ ông. Bà tâm niệm : Không nên làm tổn hại những kỷ niệm của quá khứ.
 
Nguồn: http://www.viet.rfi.fr