Hiển thị các bài đăng có nhãn Sách Lược Thái Bình Dương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sách Lược Thái Bình Dương. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

ÚC CHÂU VÀ TÂN TÂY LAN


CÁC CƯỜNG-QUỐC
VÀ SÁCH-LƯỢC
THÁI-BÌNH-DƯƠNG
 

 
 

(Tiếp theo…) 
 
CHƯƠNG TÁM
********************************************************

 
 

8. ÚC CHÂU VÀ TÂN TÂY LAN

  

·       Úc Châu, cơ sở hậu cần và cứ điểm xuất phát phục thù của Mỹ ở Thái Bình Dương.

·       Tài nguyên Úc Châu và giao thương Nhật-Úc.

·       Tân Tây Lan và Úc Châu: sự thịnh vượng ở Nam Bán cầu. Viễn vọng Nam-cực-châu.

 

 

 
 

VIII

mở rộng vòng đai, 2 trận thủy chiến
 ở đảo midway và biển san-hô

 
Nếu đầu năm 1942, Nhật dám phát động chiến tranh ở Ấn Độ thì chắc chắn sẽ có ảnh hưởng nguy hại, uy hiếp đường tiếp tế của Nga ở Ba Tư. Năm 1941, Anh phải đồng ý để cho quân Nga cùng chiếm Ba Tư với mình là vì nếu Nga thiếu tiếp tế , Nga bại trận, Anh sẽ lâm nguy. Nhật sợ mất lòng Nga không dám Tây tiến sau ngày chiến thắng ở Miến Điện.
 
Tháng 7 năm 1942, Nhật đã từ tạ, không đặt kế hoạch phối hợp quân sự với Đức Ý. Nhật còn nơm nớp sợ Mỹ phản công ở Thái Bình Dương. Một sự việc nhỏ mà có ảnh hưởng lớn lao đến chương trình tiến quân của Nhật. Ngày 18 tháng 4 năm 1942, hai hàng không mẫu hạm Enterprise và Hornet chở phi cơ đến gần đất Nhật, 16 chiếc B.52 thả bom xuống Tokyo. Sự thiệt hại không có gì đáng kể, nhưng sự việc này làm cho các nhà thao lược Nhật ăn ngủ không yên. Họ không thể tin rằng phi cơ B.52 lại có thể cất cánh từ các sân bay trên hàng không mẫu hạm. Chắc chúng phải đến từ đảo Midway. Đảo này ở giữa đường Nhật và Hạ Uy Di, Nhật cần phải đánh chiếm để dứt mối lo thị trấn hứng mưa bom đạn.
 
Vậy cần phải nới rộn vòng đai phòng thủ và uy hiếp đường giao thương tiếp tế của Mỹ từ Hạ Uy Di đi Úc châu. Tại đây, tàn quân của tướng Marc Arthur đương chỉnh bị lực lượng. Trong chương trình vòng đai mở rộng, Nhật cần phải đánh chiếm những cứ điểm hình thắng:
 
1)    Hải cảng Moresby trên bờ biển Tây Nam đảo Tân Guinée.

2)    Đảo Tulagi trong quần đảo Salomon.

3)    Midway và các đảo quanh vùng.

4)    Các đảo Addak, Attu, Kisbat trong quần đảo Aléoutiennes. 

Các cứ diểm ở quần đảo Kouriles thêm mạnh thanh thế. Chiếm Midway là ngăn trở được Mỹ không tập Tokyo. Chiếm Tulagi và cảng Moresby là uy hiếp miền Đông Bắc Úc. Từ 2 căn cứ này, Nhật có thể chiếm thêm các quần đảo Samoa, Fidji, đảo Tân Calédonie nữa.
 
Nhật gọi đô đốc Nagumo từ Ấn Độ Dương để lo việc chương trình hải phòng nới rộng. Mỹ cầm cự được và cuối cùng thắng trận Midway vì mật điện của Nhật lọt vào tai Mỹ mà Mỹ lại biết chìa khóa của mật điện Nhật. Cơ mưu bại lộ, Nhật vẫn không nghi nghờ gì cả… Nhật còn chiến thắng làm sao? Tuy không thắng trận ở đảo Midway song ở phía Đông Bắc Thái Bình Dương, quân Nhật chiếm cứ quần đảo Aléoutiennes một cách dễ dàng. Không gặp sức kháng cự đáng kể.
 
Nhật vẫn chiếm được đảo Tulagi và vì đảo này nhỏ, Nhật muốn thiết lập một phi trường lớn ở Guadalcanal. Mỹ đem lực lượng hải không quân tấn công đảo này. Trận đánh với nhiều keo thắng bại kéo dài từ tháng 8 năm 1942 đến cuối tháng 2 năm 1943 đô đốc Tanaka phải triệt thoái Guadalcanal với 12.000 tàn binh sau khi 25.000 chiến sĩ Nhật đã tử thương trên mặt biển và trên hải đảo. 

Ở phía quần đảo Aléoutiennes, Mỹ cũng phản công kịch liệt, nhưng quân Nhật thừa lúc trời sương, rút lui êm thắm, Mỹ cứ lo vãi đạn, đến chừng biết là mình bắn phí đạn vào đất trống thì quân Nhật đã đi xa tự lúc nào rồi.

Kế hoạch nối rộng vòng đai phòng thủ của Nhật bị thất bại, Úc châu nhờ đó mà được an toàn, Úc châu và Tân Tây Lan tận lực giúp Anh Mỹ trong việc phục thù rửa hận. 

GÍA TRỊ ÚC CHÂU TRONG CUỘC DIỆN THÁI BÌNH DƯƠNG
 
Hải quân Nhật không thắng được trận Guadalcanal, nhuệ khí quân Mỹ lên cao, Mỹ đặt kế hoạch đánh bạt Nhật ra khỏi căn cứ Rabaul ở phía bờ biển đảo Tân Bretagne để bảo vệ cho đường liên lạc Úc Mỹ. Binh bộ của Nhật đã vượt núi đến gần Moresby, không có quân từ biển đổ bộ lên hô ứng với mình nên phải rút quân vào rừng núi. Quân Nhật vẫn giữ được 3 cứ điểm ở bờ biển đông bắc đảo Tân Guinée, đảo có diện tích rộng rãi bậc nhì thế giới sai Thanh Đảo.

Quân Úc phối hợp với quân Mỹ, dưới quyền tướng Mỹ, trong các trận đánh ở Thái Bình Dương. Năm 1943, Úc huy động 11 sư đoàn. Chưa cần nói đến quân số, chỉ một việc Úc châu để cho Mỹ dùng đất Úc làm căn cứ cũng đã là một sự trợ lực qúi báu lắm rồi. 

Rủi cho Nhật là cũng vì mật mã bại lộ mà tháng 4 năm 1943, thủy sư đô đốc Yamamoto bị phi cơ Mỹ triệt kích trên đường thị sát mặt trận.

Được Úc châu làm cơ sở hậu cấn, Mỹ đã có sẵn một yết tố thắng lợi quyết định. Có nhiều nhà thao lược tỏ ý trách Nhật không khai thác mạnh những chiến thắng đầu năm 1942 để chiếm phứt Úc châu cho rồi, để Úc châu an toàn làm chi cho sinh thêm hậu hoạn. Lời trách này chỉ có lý khi Nhật thực tâm trao trả lại quyền dân tộc tự quyết cho các dân tộc nhược tiểu ở Á châu. Có làm được như vậy, Nhật mới tránh được cái lo hậu cố mà dồn hết tinh lực ra tiền tuyến. Nhưng Nhật đã không làm được như vậy về chính trị thì về mặt quân sự, Nhật chỉ có thể nghĩ đến việc nới rộng vòng đai phòng thủ mà thôi. Cho dẫu Nhật thắng trong trận thủy chiến biển San Hô ở Đông Bắc Úc và đổ bộ lên đất liền, Nhật cũng không chiếm lĩnh được Úc châu mà lại còn sợ bị sa lầy khốn đốn.

Cho dẫu Nhật có làm chủ được Úc châu thì Anh Mỹ vẫn có đất gần để mưu việc phản công.

Tân Tây Lan ở phía đông nam Úc châu 1.200 hải lý. Dân Tân Tây Lan đông khoảng 2 triệu rưởi người, đa số là gốc người Anh, còn dân Maori sở hữu chủ quần đảo thì chỉ còn độ 185.000 người Tân Tây Lan đã làm một cố gắng quân sự phi thường để giúp người Anh. Họ đã huy động đến 1/3 tráng đinh để sung vào quân đội. Như vậy liên minh chặt chẽ với Úc châu và Tân Tây Lan, Mỹ đã nắm quyền bá chủ ở Nam phần Thái Bình Dương, điều kiện cần thiết để chiến thắng ở Hải Dương Châu. Ưu thế lừng lẫy, Nhật cũng không thể có được. Cái hình thế thắng bại đã hiện rõ ở Úc châu Và Tân Tây Lan. 

Sau thế chiến, đối với Nhật, cường quốc kinh tế, giá trị của Úc châu càng thêm phần quan trọng. Nhật tuy là cường quốc kỹ nghệ thứ hai trên thế giới nhưng tiềm năng và cơ sở kinh tế rất mỏng manh. Có đủ số thợ chuyên môn, có những nhà phát minh, sáng chế tài giỏi, nhưng Nhật thiếu nguyên liệu và phải trông chờ nơi sự cung cấp nguyên liệu ở các nước ngoài. Nếu nguồn tiếp tế ấy vì một duyên cớ gì mà bị đình trệ (đình trệ thôi, chớ đừng nói là cạn khô, đứt tuyệt) nhiều hậu qủa nghiêm trọng cũng tức khắc xảy ra. Mua nguyên liệu ở Đông Nam Á và Úc châu là nơi gần, phí tổn chuyên chở nhẹ, hàng hóa, chế phẩm Nhật mới có thể hy vọng cạnh tranh với các cường quốc kỹ nghệ khác. Sau thế chiến, Úc châu lại khám phá thêm nhiều tài nguyên như:

-      Năm 1949, tình cờ khám phá mỏ Uranium ở tiểu bang Bắc Địa.

-      Năm 1955, phát kiến mỏ bauxite lọc ra nhôm ở vịnh Hải Âu, mỏ phong phú lắm, sức dự trữ về nhôm có đến 3 tỷ tấn. Úc nhảy lên bậc nhất thế giới về sản xuất nhôm. (Hoa Kỳ lật đật chem vào, nắm 52% cổ phần khai thác, Gia Nã Đại 20%, Pháp 20% còn ConZinc Riotino của Úc châu chỉ có 8%).

-      Ở miền sa mạc Tây Úc, mỏ sắt lồi lên mặt đất. Sức sản xuất có thể đến 8 tỷ tấn, Úc đã sửa sang một hải cảng trong Ấn Độ Dương để tiện việc xuất cảng sang Nhật.

Giao thương Nhật Úc càng ngày càng phát triển, quan trọng cho cả hai bên. Úc cần bán nguyên liệu mà Nhật cần mua, Mỹ tuy là nước đồng minh quân sự với Úc nhưng Mỹ đã đâu có cần mua nguyên liệu của Úc. Vì hiểu lẽ sinh tồn tương quan nên Úc đãi Nhật bằng cảm tình thân hữu. Dẫu thân hữu nhưng vẫn cấm tuyệt không dung nạp người Nhật di dân. Úc châu và Tân Tây Lan đương thiếu nhân lực để phát triển kinh tế, Nhật có nhiều thợ giỏi, ngặt vì là giống da vàng, Úc châu và Tân Tây Lan chỉ cho nhập cảnh kiều dân da trắng. Được biệt đãi nhất là người di cư gốc Anh. 

Tuy chưa bị đặt dưới quyền quân phiệt Nhật ngày nào nhưng Úc và Tân Tây Lan cẩn thận đề phòng, sợ có ngày mang họa. Gác vấn đề di dân ra, chúng ta có thể nói rằng những phát kiến tài nguyên mới ở Úc cũng góp một phần quyết định hữu hiệu vào việc hưng khởi kỹ nghệ của Tam Đảo Phù Tang.

THẾ LỰC ÚC – TÂN TÂY LAN Ở NAM BÁN CẦU

Úc châu, đảo lục địa, diện tích 7.700.000 csv mà dân số chỉ có 11 triệu người. tài nguyên lại phong phú. Thổ dân trước là người Pitjanjara còn ở thời đại thạch khí dồn vào sa mạc, sống nhờ ốc đảo Aranda. Cùng với Tân Tây Lan, Úc châu đặt vinh dự trong việc phát huy tính chất Anh Cát Lợi của đất nước mình.

Từ Âu chiến đến Thế chiến, Úc châu đứng về phe thắng trận. Sau mỗi lần chiến thắng lại phát triển quốc lực bằng cách chiếm thêm những đảo căn cứ chiến lược trong Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Úc châu là đảo lục địa giáp Thái Bình Dương về phía bắc và phía đông, giáp Ấn Độ Dương ở phía tây và phía nam.

Những đất thuộc quyền quản trị Úc châu phần lớn đều thuộc về Đức trước thời Âu chiến. Quan trọng nhất là Đông phần đảo Tân Guinée, quần đảo Bismarck, quần đảo Nauru. Quần đảo Nauru ở phía nam xích đạo 32 dặm, đông kinh tuyến 166°55 Anh, Úc, Tân Tây Lan cùng quản trị chung.

Anh cũng giao luôn quần đảo Coco-Keeling gồm 27 đảo nhỏ ở đông bắc Úc châu 1.300 dặm (trước kia thuộc về Tân gia Ba) cho Úc châu trông coi luôn. Như vậy, đảo vẫn cứ còn là của Anh để xử dụng khi hữu sự mà Anh nhẹ bớt gánh chi phí quân sự. Đây là một căn cứ không quân quan trọng canh chừng biển San Hô một cách hữu hiệu.

Cùng với Úc châu, Tân Tây Lan là nước quan trọng ỏ Nam bán cầu. Néu chữ Hải Dương châu là danh tự riêng, dùng để chỉ các quần đảo từ Nhật Bản Á Đông, đến Chí Lợi (Nam Mỹ), từ biển San Hô đến ngoài khơi Calfiornie thì Tân Tây Lan là nước quan trọng nhất vì một mình Tân Tây Lan đã được diện tích bằng ¼ tổng số của diện tích tất cả các đảo cộng lại rồi. Truớc năm 1962 Tân Tây Lan còn nắm quyền thống trị quần đảo Tây Samoa, một vị trí chiến lược mà Hoa Kỳ, Đức, Anh chịu nhường cho Đức rồi Âu chiến xảy ra, Tân Tây Lan chiếm lĩnh đảo này. Ngày 1 tháng 1 năm 62, Tây Samoa đã được độc lập nhưng dân Mau thuộc chủng tộc Polynésien như người Maori ở Tân Tây Lan vẫn đón nhận viện trợ của Tân Tây Lan và vẫn ở trong khối Liên Hiệp Anh. 

Hội đồng Thái Bình Dương gồm đại biểu 3 nước Mỹ, Úc, Tân Tây Lan họp ở Đàn Hương Sơn (Honolulu), thủ phủ Hạ Uy Di vào tháng 8 và 9 năm 1951 đã thành lập khối ANZUS để lo việc phòng thủ chung. Khối được tăng cường bằng 2 hiệp ước song phương Mỹ-Phi, Mỹ-Nhật. 

Anh Quốc ngoài sự việc có đàn em tham dự việc phòng thủ Thái Bình Dương, còn lập ra một Ủy Hội Thái Bình Dương và thống trị chung với Pháp quần đảo Hébrides, trọn quyền riêng về quần đảo Salomons (Quần đảo Tân Hébrides sản xuất nhiều manganèse mà Nhật đặt mua trước hết tổng số).

Về phía Nam Cực Châu. Úc châu và Tân Tây Lan cũng có nhiều lợi thế tranh đất hơn các quốc gia khác. Úc châu tranh phần đất Nam cực châu giáp với Thái Bình Dương, phần đất từ 60 Nam vỹ giữa 45-160 đông kinh tuyến, trừ một phần nhỏ dành cho Pháp. Hiện thời Nam cực châu chưa khai quật được than đá và các loại kim khoáng vì băng tuyết chồng chất từ hàng triệu năm qua dày đến 2000-3000 thước, gió thổi mạnh thường đến 200 cây số một giờ và khí lạnh thường là 70 độ dưới số không. Nhưng… biết đâu với kỹ thuật khai mỏ tiến bộ của thời đại nguyên tử…! Úc châu là quốc gia nhiều tính chất Anh Cát Lợi, người Anh vốn có viễn kiến chính trị và biết lo xa. 

Dẫu chưa có tài nguyên Nam Cực châu nhưng không ai chối cãi được sự trọng yếu của Úc châu và Tân Tây Lan ở Nam phần Thái Bình Dương và đó là một lý do mà Mỹ đã quan tâm khi thành lập Khối ANZUS.

Có điều đáng nói là Trung Cộng ở Hoa lục cũng gây được chút ảnh hưởng chính trị ở Nam Bán cầu trong đảng Cộng sản Tân Tây Lan. Đảng này theo thầy Mao, Mỹ có thể phớt tỉnh nhưng Nga thì căm giận.

Nhìn chung Úc và Tân Tây Lan đều có những vị trí chiến lược quan trọng trên các hải đảo, mạnh về thế phòng ngự, bảo tồn uy thế chính trị của người Anh. Anh Quốc tuy không còn địa vị đại cường nhưng vẫn là một lực lượng mạnh làm cho Mỹ phải kiêng nể.

Vai trò kín đáo của Anh vẫn còn gía trị quyết định trong diễn tiến thời cuộc Thái Bình Dương. 

Thường thường sóng gío Thái Bình Dương vẫn có ảnh hưởng giao động Ấn Độ Dương vì đất Á châu tiếp giáp với hai đại dương ấy. Úc châu và Tân Tây Lan quan trọng vì có vai trò pháo đài trấn thủ liên dương. Mỹ quốc tuy là siêu cường mà quyết định nào quan trọng cũng thường yêu cầu được Anh tán trợ và làm hậu thuẫn. Anh không ra mặt chỉ để cho hai hội viên trong khối Liên Hiệp Anh lên vũ đài trình diện với dư luận quốc tế còn mình thì đứng ở phía trong giúp đỡ ý kiến, phương lược hành động, và như thế đở phần hao tổn, đỡ mang tiếng thị phi!

Không còn mạnh về oai võ thì phải khôn khéo làm nghề quân sư giàu mạnh kinh nghiệm. Như thế cũng đủ bảo vệ lợi quyền.

 

     

 (Hết chương 8)

CHIẾN SỰ THÁI BÌNH DƯƠNG

CÁC CƯỜNG-QUỐC
VÀ SÁCH-LƯỢC
THÁI-BÌNH-DƯƠNG

 

(Tiếp theo…)

CHƯƠNG BẢY
********************************************************* 
 
 
 
7. CHIẾN SỰ THÁI BÌNH DƯƠNG 
   
  • Đế quốc 3 vòng. Kế hoạch Nam Tiến của Tanaka (Điền Trung) năm 1927.
 
  • Tốc chiến tốc thắng – Thắng mau hơn dự định đến 2, 3 tháng.
 
  • Chiến thuật nhảy qua lưng cừu của Đồng Minh. Nhảy tới Xung Thằng Okinawa.
 
 
      
 
 
 
VII
lý thế về việc thiết lập 3 vòng 
 
 
Bị Mỹ phong tỏa nguồn tiếp liệu, bất đắc dĩ Nhật phải khai chiến trên Thái Bình Dương với kế hoạch thiết lập một đại khu thịnh vượng chung ở Đông Á gồm có 3 vòng: 
    
     - Vòng trung tâm gồm có Nhật, Cao ly, Mãn Châu, Đài Loan, Trung Hoa (không kể các đất phiên thuộc Thiên Triều ngày trước).
 
     - Vòng tiếp tế gồm có Phi Luật Tân, Đông Dương, Mã Lai, Nam Dương Quần Đảo.
 
     - Vòng đai phòng thủ gồm có Miến Điện, Tân Guinée, quần đảo bismarck, Mariannes, Carolines, Marshall.  
 
Nhật chưa hề nghĩ đến việc xâm chiếm Alaska ở Bắc Mỹ và Úc Châu, một đảo lục địa ở Nam phần Thái Bình Dương. Vòng đai phòng thủ ấy theo các nhà quân sự đủ để ngăn cản cuộc tấn công của Đồng Minh. Nhật cũng đặt tin tưởng vào các hoạt động của tàu ngầm Đức khiến Đồng Minh Anh Mỹ thiếu phương tiện mở những cuộc phản công trên Thái Bình Dương. 
 
Trái lại, về phía Đức ở Âu Châu, Hitler có cái ảo vọng đánh chiếm miền Caucase ở Nam Nga mở đường vào Tây Á trong khi quân Nhật đánh Ấn Độ rồi quân Trục hội kiến nhau ở Ba Tư. Hitler gởi đến cho người Nhật một nhân tài cách mạng của Ấn Độ là Chandra Bose hăng say với việc giải phóng Ấn Độ bằng võ lực.
Để tiến hành kế hoạch dự định, tháng 7 năm 1941, 40.000 quân Nhật tràn xuống phía Nam Đông Dương. Tổng Thống Roosevelt lên tiếng phản đối mạnh mẽ hành động đó uy hiếp nền an ninh quốc gia của Mỹ, và như vậy thì chính sách hòa dịu, thân hữu của Mỹ đối với Nhật phải cáo chung từ đây. 
 
Nhật sửa soạn gấp việc Nam tiến, quyền Tổng chỉ huy phương Nam thuộc về hoàng thân Terauchi, căn cứ xuất phát là Hoa Nam, Đài Loan, Đông Dương cho mặt Thái Bình Dương, Thái Lan cho mặt Miến Điện. 
 
Chủ trương Đại Đông Á có hiệu lực xúc động phấn khởi đối với các dân tộc Đông Nam Á thống khổ dưới ách thống trị của thực dân da trắng từ bấy nhiêu lâu. Nhiều người tin tưởng ngây thơ vào những lời tuyên bố tình thương trong chủng tộc da vàng. Cố nhiên là việc thiết lập khu Đại Đông Á phải phục vụ quyền lợi Nhật Bản trước đã. Dân Nhật phải sống khắc khổ, thắt lưng buộc bụng từ khi chiến cuộc Hoa Lục sa lầy, vụ xung đột Lư Cầu Kiều kéo dài đã 4 năm dư mà chưa đem lại kết qủa dứt khoát. Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, 3 nước xuất cảng nhiều gạo nhất thế giới hồi đó, đủ sức nuôi quân đội Nhật tung hoành ở Thái Bình Dương. Dầu hỏa Nam Dương đủ cung ứng cho nhu cầu nhiên liệu của kỹ nghệ và các tàu bè Nhật Bản. Chiếm được vùng tiếp tế nguyên liệu, Nhật có đủ phương tiện để theo đuổi chiến tranh cho đến ngày toàn thắng. Vùng tiếp tế là máu, là sữa, nguồn sống của đế quốc Nhật vậy. Làm chủ được vùng tiếp tế thì Nhật thoát khỏi cái nạn khắc khoải mong chờ nguyên liệu đến từ thuộc địa các nước Tây Phương, đến từ Mỹ, cường quốc lúc nào cũng sẵn sàng bắt chẹt Nhật, gây đủ thứ rắc rối khó khăn. Nhật mưu tính một khu Đại Đông Á thịnh vượng (điều này thì thực tâm) với điều kiện sự thịnh vượng chung ấy phải phục vụ cho sự thịnh vượng riêng của Nhật… 
 
CHIẾN LƯỢC THẦN TỐC 
 
Trong sách Quân Sử Thế Chiến (Histoire militaire de la seconde guerre mondiale), tác giả là tướng Chassin chê Nhật không biết tấn công Đông Minh ở Thái Bình Dương vào tháng 5 năm 1940, lúc quân Anh hốt hoảng bôn đào ở Dunkerque. Thực ra cuối năm 1941, đầu năm 1942, quân Nhật vẫn chiến thắng thần tốc, khiến cho thế giới nghe tin mà thán phục, kinh hoàng. Nhật không dùng cơ hội Dunkerque thì dùng cơ hội Bắc Phi vì lúc đó quân Trục dưới quyền tướng Rommel đang đánh đuổi quân Anh chạy dài về Ai Cập.
 
Thái Bình Dương rộng mênh mông, muốn làm chủ chiến trường, cần phải làm chủ những phi trường trên các hải đảo. Những đảo vòng tròn bằng san hô như quần đảo Marshall rất thuận tiện cho việc lập căn cứ, đường vòng tròn trên đảo dùng làm đường bay, vũng nước trong đảo tiếp nhận tàu bè và thủy phi cơ, vùng trú ẩn kín đáo. 
 
Quần đảo Salomon, đảo lớn Tân Guinée có nhiều núi cao, chỉ có vùng duyên hải là có ít nhiều đường giao thông, những sân bay ở đây thật là qúi gía. Bên phòng ngự cố giữ, bên tấn công cố chiếm, chiến sự ác liệt liên tiếp xãy ra. 
 
Phòng tuyến Nhật có vị thế một chữ L, chiều dọc chạy từ quần đảo Kouriles xuống đến quần đảo Mariannes, Carolines. Trên đường này đảo Saipan là căn cứ chính. Chiều ngang chạy từ quần đảo Palau qua quần đảo Carolines đến quần đảo Marshall. 
 
Ngoài ra còn có căn cứ Cam Ranh; Saigon ở Đông Dương, địa bàn thuận lợi để tiến sang Mã Lai, xuống Nam Dương Quần Đảo.
 
Phe Đồng Minh Anh, Mỹ, Hòa Lan, Úc có nhiều căn cứ hơn. Mỹ có đảo Guam ở sát phòng tuyến. Trân Châu Cảng với lực lượng hùng hậu về hải không quân. Anh có Hương Cảng và nhất là Tân Gia Ba (Singapour) pháo đài kiên cố nhất ở Đông Nam Á. Hòa Lan làm chủ Nam Dương Quần Đảo 2 triệu cây số vuông đất nhiều nguyên liệu. Phía Nam bán cầu, Úc và Tân Tây Lan là những hậu cứ bất khả xâm phạm vì Nhật không hề nghĩ đến việc chiếm lãnh Úc Châu, chiếm lãnh rồi làm sao trấn giữ?
 
Chỉ nói riêng về Phi Luật Tân với hơn 7000 đảo, nếu quân Mỹ thiện chiến hơn và được dân địa phương giúp sức thì cũng đũ khiến cho Nhật sa lầy. 
 
Trước lực lượng hùng hậu của Đồng Minh, sau trận tập kích Trân Châu Cảng, hủy diệt cái nguy cơ trước mắt, Nhật chỉ dùng có 200.000 binh sĩ, dưới 1.000 phi cơ, 10 hàng không mẫu hạm, 13 thiết giáp hạm, mà trong vòng 20 ngày loại trừ 2 hạm đội Đồng Minh trong Thái Bình Dương, chiếm đảo Guam của Mỹ, Hương Cảng của Anh, nhảy lên Phi Luật Tân, Mã Lai và đảo Bornéo. 
 
Ngày 15 tháng 2 năm 1942, toàn thể nước Anh, 70.000 quân Anh trấn thủ Tân Gia Ba phải thượng cờ hàng… quân Nhật tiến sang đảo Java với khí thế triều dâng gío cuốn.
 
Blitz Krieg. Chiến tranh chớp nhoáng, quân Nhật đã thắng những trận sấm sét vang lừng. 
 
ĐỒNG MINH PHẢN CÔNG
 
Chiến thuật, chiến lược của Mỹ căn cứ vào sự phòng thủ phương tiện vật chất. Tiềm lực kỹ nghệ nhờ chiến tranh mà phát triển mạnh thêm. Ngân sách năm 1942 của Mỹ có những khoảng chi tiêu khổng lồ về chiến cụ. Mỹ trù liệu 60.000 phi cơ, 45.000 chiến xa, 10 triệu tấn tàu bè. Năm 1943, trù liệu 125.000 phi cơ, 75.000 chiến xa, 10 triệu tấn tàu bè. Cuối năm 1942 Mỹ động viên đến 4 triệu người trong quân đội về các ngành kỹ nghệ. 
 
Thượng tuần tháng 5 năm 1942 trận đánh ở biển San Hô, quân Nhật muốn nới rộng vòng đai phòng ngự bị quân Mỹ chận lại. Thượng tuần tháng 6, quân Nhật muốn chiếm đảo Midway (Trung Lộ) ở 1300 hải lý phía bắc Hạ Uy Di bị quân Mỹ đẩy lui và Nhật bị tổn thất rất nặng. 4 hàng không mẫu hạm Nhật bị chìm, 2 thiết giáp hạm bị tổn thương, 1 tuần dương hạm bị chìm, 250 phi cơ bị hạ. 
 
Từ đây, Đồng Minh Anh Mỹ chuyển sang thế phản công với những phương tiện rất là phong phú. Nhờ có những pháo đài bay B.29, phi cơ Mỹ từ Hoa Lục trút bom xuống đất Nhật và ở Thái Bình Dương, căn cứ Truk của Nhật bị Mỹ tập kích, tương tự như trận Trân Châu Cảng mà Nhật đã thực hiện hơn hai năm về trước. Trong trận Truk, Nhật bị mất 12 chiến hạm, 11 thương thuyền, 200 phi cơ bị phá hủy. 
 
Cũng nhờ có lực lượng phi cơ rất hùng hậu, Mỹ không cần tiến dọc theo đường phòng tuyến, đánh lấy tuần tự từng căn cứ một cho mất thì giờ. Mỹ dùng chiến thuật nhãy lưng cừu, đánh thẳng vào những căn cứ trọng yếu của Nhật, bỏ rơi những căn cứ trọng yếu khác mà không sợ bị Nhật đánh ép lại. Phi cơ Mỹ có nhiệm vụ ngăn cản diệt trừ những cuộc hành quân của Nhật xuất phát từ những đồn con nhím mà Mỹ bỏ rơi lại đàng sau. Nhờ chiến thuật này mà năm 1944 chỉ trong vòng 3 tháng, Mỹ tiến xa 1.500 cây số đến gần quần đảo Phi Luật Tân. 
 
Trận đánh ở Guadalcanal (căn cứ Nhật uy hiếp Úc châu) Mỹ cũng thắng nhờ có hải lục không quân hùng hậu. Mỹ bại, Mỹ tổn thất, nhưng nhờ có nhiều chiến hạm, nhiều phi cơ qúa nên cứ phản công và đánh rấn tới, đến chừng thắng thì bày trận khác lớn hơn.
 
Trận đánh đảo Saipan (tháng 6, tháng 7 năm 1944) chỉ còn cách xa Tokyo 2.300 cây số, mưa bom, mưa đạn của Mỹ phá tan được tinh thần quyết chiến cảm tử của quân Nhật thà chết chứ không chịu đầu hàng. 
 
Trận  IWOSHIMA, một bước nhãy dài của Mỹ cũng diễn ra trong những điều kiện tương tự . Iwoshima, đảo ở cách Tokyo 1150 cây số diện tích đảo chỉ có 24 cây số vuông mà đầu năm 1945, Mỹ phải đánh tới một tháng. 
 
Tháng 4, trận Okinawa lại càng quan trọng hơn. Okinawa cách Tokyo 1450 cây số, Nagasaki 450 cây số, Cao Ly 950 cây số, Thượng Hải 800 cây số, Đài Loan 600 cây số. Chiếm được Okinawa là Mỹ đã nhãy lên giữa trung tâm đế quốc Nhật rồi. Nhật dùng phi cơ Thần Phong, phi công liều mạng đâm xuống tàu Mỹ. Sau 52 ngày tận lực kháng chiến, đảo Okinawa thất thủ, nhiều lương dân trung nghĩa nhãy xuống sông tự vận, quyết không đội trời chung với quân thù.
 
Kỹ nghệ chiến tranh của Mỹ đã chiến thắng, Mỹ chỉ thắng nhờ có vậy mà thôi. 
 
MỘT YẾU TỐ THẤT BẠI CỦA NHẬT  
 
Để đối phó với vòng vây hải dương của đồng minh càng ngày càng thắt chặt lại trên Thái Bình Dương. Nhật cũng tổ chức Pháo đài Á châu với một đường tiếp vận từ Tân Gia Ba lên đến Mãn Châu, đem nguyên liệu Đông Nam Á về cung ứng nhu cầu Kỹ nghệ chính quốc. Mỹ có nhãy lên bờ đại lục mà tranh hùng thì còn lâu. Quan niệm Pháo Đài Á Châu cũng chỉ là một quan niệm phòng ngự như Chiến Lũy Đại Tây Dương của Hitler bên Âu châu, chứng tỏ Nhật không còn nắm thế chủ động chiến trường được nữa. Mình phải lùi về thế phòng thủ trong khi người ta hăm hở mở trận phản công, đánh thẳng vào những căn cứ trọng yếu giữa đế quốc của mình, chỉ cần nghe danh từ Pháo Đài Á Châu cũng đủ biết cán cân chiến thắng đã nghiêng về phía địch. 
 
Tuy nhiên vì tinh thần chiến đấu của quân dân Nhật rất cao nên Mỹ phải dùng đến bom nguyên tử. Đây không phải là độc quyền phát minh của Mỹ. Đức đã có thể chế tạo nổi thứ khí giới này trước Mỹ nếu chiếc tàu chở nước nặng của Đức từ Na Uy trở về không bị đánh chìm. Nhật cũng đã có thể chế tạo nổi thứ khí giới này nếu 5 ký uranium mà Nhật thu vét được ở Đông Dương chuyển về Nhật trên một chuyến tàu chở thương binh không bị Đồng Minh truy kích ở Nam Hải.
 
Nhật thua vì kỹ nghệ chiến tranh Nhật không đủ tiềm năng ganh đua với kỹ nghệ chiến tranh Mỹ. Sự lý thật hiển nhiên. 
 
Nhưng truy nguyên sâu xa hơn… 
 
Nhật yếu vì kỹ nghệ chiến tranh chưa phát triển đúng mức cho kịp thời, cho sớm. Thử hỏi vì sao? 
 
Nhật phải ứng chiến trên một chiến trường rất rộng, không còn đủ người xung vào các ngành kỹ nghệ, và bận tâm vì quân vụ, Nhật không huấn luyện được cho đủ số thợ chuyên môn. Nguyên liệu tuy sẵn mà thiếu thợ chuyên môn thì ai cũng biết kỹ nghệ rất khó lòng phát triển.
 
Nhật phải ứng chiến ở nhiều mặt trận là vì Nhật không muốn để cho người khác thay mình chiến đấu. Lại càng không muốn cho các dân tộc nhược tiểu thực sự được giải phóng. Chính sách Đại Đông Á chẳng qua chỉ là việc thay thầy đổi chủ, thực dân da vàng hưởng thụ, đặc lợi, đặc quyền thay cho thực dân da trắng mà thôi. Lòng dân nhược tiểu phấn khởi lúc đầu đã nguội lạnh dần dần và chính gì vậy mà ở Phi Luật Tân, Fertig đã dựa vào dân Hồi Giáo Moros ở Mindanao phát động chiến tranh du kích rất vất vả, gian nan. Lại ở Miến Điện, Thiếu tướng Wingare, người Anh dám hành quân quấy rối sau phòng tuyến Nhật. 
 
Dẫu không bị bom nguyên tử làm rúng động tinh thần thì Nhật cũng đã thua từ ngày những dân tộc nhược tiểu nhìn rõ chân tướng của Nhật. Gỉa sử tại các vùng đất chiếm được, Nhật cho thành lập ngay những chính phủ quốc gia cho người bản xứ, trao trả thực quyền cho họ, nâng đỡ những phần tử cách mạng thì quân vụ của Nhật giảm bớt rất nhiều. Nhật không bận tâm nhiều về việc phòng thủ phong cương, có đủ nhân lực và thì giờ mà phát triển kỹ nghệ chiến tranh tại chỗ. 
 
Và nếu như vậy thì vụ Ấn Độ quật khởi đã nổ tung từ năm 1942 lúc Chandra Bose lảng vảng gần biên giới. Quân Nhật đâu có cần vào Assam làm chi. Cứ để Chandra bose chuyên lo việc ấy. Lại như ở Đông Dương, nếu Nhật không thỏa hiệp với Pháp thì quân Phục Quốc của tướng Trần Trung Lập đã khôi phục chủ quyền cho nước Việt và chế độ thực dân của Pháp đã sụp đổ ngay từ năm 1940. 
 
Khi mà khối dân nhược tiểu cộng tác chân thành với Nhật thì chắc chắn giòng lịch sử thế giới đã rẽ sang một nẻo khác, cuộc diện năm châu đã biến đổi, khác hẳn tình trạng ngày nay. 
 
Có thể Anh đã bại trận ở Ấn Độ từ năm 1942 chứ không phải chỉ có một pháo đài Tân Gia Ba thất thủ. Như Anh bại trận, Mỹ cô lập, sức mấy mà đổ bộ Bắc Phi? Và Thái Bình Dương Nhật có thể làm ân nhân cho nhiều dân tộc chứ không phải như hiện thời, ở trong tình trạng phi võ trang, chỉ có một lực lương Nhân Dân Tự Vệ mà vẫn bị các dân nhược tiểu nghi ngờ…

 
 
 
(Hết chương 7)
 

NHẬT: MƠ VÀO ĐẠI LỤC, NHỚ VỀ HẠ-UY-DI


CÁC CƯỜNG-QUỐC
VÀ SÁCH-LƯỢC
THÁI-BÌNH-DƯƠNG

 

 

(Tiếp theo…) 
 
 CHƯƠNG SÁU
*************************************************************************************
 



6.  NHẬT: MƠ VÀO ĐẠI LỤC,
                NHỚ VỀ HẠ-UY-DI  
  

  • Đảo quốc và những Địa-trung-hải địa phương. 

  • Đi về đâu giữa muôn trùng sóng gío? - Đài Loan và Hạ-Uy-Di…

  • Những mối thù bất cộng đái thiên…  
 
 
 
VI
một sức hấp dẫn tất nhiên,
bất khả kháng
 
 
Nếu eo biển Pas De Calais giữa Anh và Pháp rộng hơn, nếu đảo quốc Anh Cát Lợi có được diện tích của đảo Tân Guinée hay đảo Bornéo thì chắc giữa Anh và Pháp đã không có cuộc chiến tranh Trăm Năm mà thực sự kéo dài đến 116 năm với nhiều phen huyết chiến (1337-1453). 
 
Nhật Bản cũng là một đảo quốc như Anh và cũng ở gần Đại Lục, Hoàng Hải, Đông Hải với những quần đảo bên bờ Đại Lục đều có thủy thế và địa thế làm những Địa Trung Hải thu hẹp lại để cho dân Nhật xông pha sóng gío một cách dễ dàng. Nói về tài đi biển, người Nhật chưa hẳn đã hơn được người Maori ở Tân Tây Lan nhưng vì đất Nhật giống như những trường lũy ở ngoài chiến hào canh chừng cho hoàng thành là Đại Lục nên người Nhật luôn luôn hướng về Đại Lục để tìm đất sống rộng rãi hơn. Vượt qua hàng rào nước mặn để đến hoàng thành, người hải đảo nào lại không muốn biến những địa trung hải địa phương thành những “ao nhà’’ để cho mình tha hồ nắm quyền bá chủ? 
 
Giữa là một vùng biển, ngoài này là những đảo eo hẹp, trong kia là Đại Lục mênh mông… sức hấp dẫn của Đại Lục thật là mê ly, bất khả kháng. Chiếm giữ vị trí chiến lược hai bên, canh giữ, “ao nhà’’ thì có gì đáng gọi là hiếu chiến? Người lập nước ở Đại Lục có rộng đường dụng võ, miễn là biết chiến đấu thì có thể giong ruổi con đường vạn dặm, tìm hạnh phúc trong tiếng vó ngựa tung hoành. Còn như dân hải đảo có giỏi dụng võ thì cũng chỉ chiếm lĩnh cho hết mấy ngàn hòn đảo lớn nhỏ thôi, đất ở đâu mà chiếm thêm được nữa? Không lẽ giục ngựa xuống biển, tranh giành Thủy Phủ với Diêm Vương, Long Vương? Vậy thì, bằng bất cứ mọi gía, phải tìm đường vào Đại Lục. Cuộc chiến tranh Trăm Năm giữa Anh và Pháp vì Anh đương lâm vào cảnh nội chiến giữa 2 phe Bạch tường vi, Hồng tường vi. Nội chiến chấm dứt thì Anh Quốc có hy vọng đi chiếm đất phương xa, ở Phi Châu hay ở Tân Thế Giới.
 
Nước Nhật không có cái may mắn ấy cho nên Nhật phải nhìn chăm chăm vào bán đảo Triều Tiên, Liêu Đông, hải đảo Đài Loan, quần đảo Bành Hổ, Phúc Kiến. Chiếm giữ được đất ở hai bên bờ địa trung hải, cái lợi nhất định phải là cái lợi đa diện, đa phương:
 
Không sợ người đại lục xâm lăng vì họ rục rịch đóng binh thì mình đánh ngay họ ở trên bờ đại lục. Dẫu cho mình chiến bại, họ cũng chưa dễ dàng gì vượt qua biển để xâm phạm đến đất mình. Cho dẫu họ có vượt biển khơi thì mình cũng có thể nghênh chiến ở ngoài khơi, nhận chìm họ xuống biển. Cho dẫu họ có đổ bộ được lên bờ biển, chiếm được vài biên thành đi nữa, chắc gì họ đã giữ được lâu? Không cần mình phải huy động dân đông đảo bao vây họ bốn mặt mà họ vẫn phải chịu cái nguy tuyệt lương, tuyệt viện. 
 
Nếu dân đảo chiếm giữ được bờ đại lục thì dân đảo có hy vọng vào sâu. Lo gì cái nạn tuyệt lương! Đại lục rộng mênh mông, ta có thể cướp lương của địch mà nuôi dưỡng quân ta. Nơi này họ nghiêm việc đề phòng thì ta xuất kỳ bất ý, đánh cướp nơi khác. Bộ đâu nơi nào họ cũng nghiêm cẩn được hết hay sao? Họ chia quân phòng giữ lung tung thì nơi nào họ cũng thưa hở. Mình tiến lên thì có hy vọng chiến thắng. Gặp lúc không xứng ý thì lui về căn cứ chờ đợi thời cơ. Cùng lắm là lại ra biển, họ dễ gì truy kích mình được? Tạm lui ra biển rồi mình lại tràn vào, quyền chủ động là ở nơi mình chứ dân đại lục thường phải giữ thế phòng ngự, dẫu không hoàn toàn bị động thì cũng khó chơi cái trò tiến thoái cút bắt với mình. Biển khơi đối với dân hải đảo là một đường giao thông thuận lợi dễ dàng, một nơi mưu sinh cung cấp tài nguyên dồi dào, có cả minh châu, san hô, kỳ trân dị bảo. Đối với dân đại lục thì lại là một cõi huyền bí đầy những thứ kình ngao quái dị, sóng gío bất trắc, hãi hùng. Đó mới thật là thiên hiểm, trời bầy ra nơi hiểm trở, dân đại lục ra đến bờ biển là đứng khựng lại, chùn bước không dám đi xa.
 
Nhờ có biển khơi nuôi dưỡng và bảo vệ, dân hải đảo ít lo bị nạn xâm lược. Chỉ có dân hải đảo chinh phục dân hải đảo mà thôi. Dân Nhật mạnh hơn dân Ainou (Oải Nô) từ quần đảo Kiou Siou (Cửu Châu) tiến lên chiếm lĩnh hết Tam Đảo. Năm 365, Nhật đánh nước Tân La ở bán đảo Triều Tiên, bắt phải triều cống. Nhật đã có một căn cứ trên bờ đại lục để tính kế lâu dài… Dân đại lục phải lo lấy lòng dân hải đảo. Năm 479, vua Nam Triều ở Trung Hoa phải phong cho Hùng Lược Thiên Hoàng làm Trấn Đông đại tướng quân. 
 
Trong lịch sử kiến quốc, dân Nhật ít khi phải tiếp nhận cái nguy cơ xâm lược đến từ đại lục. Lấy binh uy của quân Mông Cổ làm rúng động cả hai châu Âu – Á, lại được dân Triều Tiên làm cố vấn thủy sư, tổ chức cuộc xâm lăng có phương pháp, trước hết chiếm vùng eo biển Đối Mã để vững cái thế vọng hải rồi sau mới huy động đại binh thế mà rốt cuộc cũng phải chịu thảm bại năm 1281 ở Hoàng Hải. Cả một hạm đội hùng mạnh 4000 chiến thuyền và 100.000 quân kiêu dũng đều chìm lỉm trước ngọn Thần Phong và sức nghênh chiến nương theo oai sóng gío của dân Tam Đảo (Trận chiến gợi cho người đọc sử liên tưởng đến việc quân Anh đại phá “Đạo Binh Vạn Thắng’’ (Invincible Armada) của Tây Ban Nha xâm lăng Anh Cát Lợi sau này). Nếu phải nghênh chiến để bảo toàn hải đảo, dân hải đảo thường hưởng được cái lợi lấy khỏe đợi mệt đến mức tối đa. Thuận tiện cho họ về cả hai mặt chiến, thủ. 
 
Người đánh mình thì khó, mình đánh người thì dễ. Bởi thế, dù không xâm lược chiếm đất, đặt quan cai trị, lập căn cứ thuộc địa ở bên bờ đại lục được đi nữa thì dân hải đảo cũng còn có cách làm nghề hải khấu, thủy khấu, quấy nhiễu đại lục liên miên. Người Viking, người Normand ở Bắc Âu, người Đồ Bà ở Nam Dương quần đảo đều dùng chiến thuyền để thực hiện những việc xâm chiếm đại lục, trách gì dân Nhật không để cho Triều Tiên, Liêu Đông, Triết Giang, Phúc Kiến, toàn những mồi béo bở trên bờ đại lục được lạc nghiệp an cư. Ai mà thờ ơ được trước những kho gạo, kho vàng bạc gấm lụa, kho nô lệ mỹ nữ bày sẵn trên bờ đại lục? 
 
Thời Trung cổ dã man thì cuớp bóc thả giàn, trong thời đại văn minh thì việc tranh đoạt tài nguyên phải diễn ra dưới những hình thức khác cho hợp với… nhân đạo, nhân quyền mà lại di hại rộng rãi, sâu xa, dai dẳng hơn. 
 
ĐẠI TRƯỢNG PHU TỨ HẢI VI GIA 
 
Câu đối phổ thông, dán chỗ ngồi chơi của những người học thức sơ sài mà có hoài bão suông suông rằng đời mình sẽ là cuộc đời Từ Hải: 
 
Chí quân tử cửu châu lập nghiệp,
Đại trượng phu tứ hải vi gia! 
 
Sức mấy mà anh dám đi lập một túp liều bên đảo Cửu châu của Nhật? Vừa mới thấy bóng khách lạ lảng vảng gần bờ biển, họ nghĩ anh là do thám thì đời anh bị dũ sổ Nam Tào ngay. Cũng khó lập nghiệp ở 9 châu trong bản đồ Vũ Cống. Thiện chiến như những đoàn quân chinh phục của Phong Thần Tú Cát, Đại nguyên soái Nhật Bản mà gây chiến suốt 5 năm, rốt cuộc đến năm 1592 vẫn bị dân đại lục đẩy lui ra biển.
 
Trời sinh ra muôn vật, đã cho phi cầm tẩu thú, du ngư, tiềm long, mỗi loài một chỗ ở riêng. Anh là dân đại lục thì anh cứ chịu khó làm bạn với non xanh, đừng có láng cháng ra làm chi xa đến các đảo viễn duyên, nhất là khi những đảo ấy lại ở gần một nước hải đảo hùng mạnh. Nếu anh được thác sinh làm dân hải đảo thì anh đừng mạo hiểm đi lập nghiệp ở các bán đảo làm chi. Dân đại lục sẽ tìm đủ mọi cách khử trừ, trả anh về với biển cả. Dầu anh có thiện chí, hòa bình đến mấy, họ cũng sợ về sau anh sẽ đổi dạ thay lòng. Biết đâu lúc ban đầu anh cu xử tử tế dễ thương nhưng đến khi làm ăn có cơ sở rồi, đủ vây cánh anh sẽ chơi cái trò phản khách vi chủ, đoạt luôn đất sống của người ta thì nguy lắm. Cái trò tu hú xí ổ cưởng là việc xẫy ra một cách rất nhàm đến nỗi người nghe không cần luận bàn lẽ phải về đâu, mà cứ quay lại trách cái bất trí của con cưởng. Sao lại để cho tu hú đến đẻ nhờ?  Nó có thừa dịp mình đi vắng mà gởi một cái trứng nội tuyến vào thì mình cũng phải đủ thông minh để làm một sự phân biệt của người, của ta chứ? Hiếu khách như thổ dân đảo Cuba và đế quốc Aztèque hồi cuối thế kỷ XV thấy bọn người mặt trắng, râu ria xồm xoàm giông buồn đến đất mình thì vội vàng ra đón, đem biếu đủ các thức ăn thức uống giải lao. Thế rồi chỉ 50 năm sau ngày Christophe Colomb đổ bộ lên Cuba, thổ dân ở đó không còn mạng nào sống sót. Đế quốc Aztèque tiêu diệt, vị hoàng đế cuối cùng bị người ta nướng trên than hồng để khảo cho ra hầm bạc, hầm vàng. 
 
Trong cuộc cạnh tranh sinh tồn, dân hải đảo có thừa kinh nghiệm để không chấp nhận sự hiện diện của đại lục. và dân đại lục cũng đáp lễ tương tự, chứ ai dại gì chứa chấp cái nguy cơ nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà. Dân Nhật đã nhiều lần nhảy lên cầu bán đảo Triều Tiên nhưng rồi cứ bị đẩy xuống. Vì là một đảo quốc, họ chỉ thành công trong việc lập nghiệp tại các hải đảo mà thôi. Khí hậu hải đảo cố nhiên là thích hợp với dân hải đảo. Vì họ là đảo quốc nên không có định hướng phát triển lãnh thổ, hể nơi nào có hải đảo chiếm lĩnh được là họ di dân đến ngay. Đâu có cần bàn luận Nam, Bắc, Đông, Tây. Miễn là có hải đảo mà trong đó có nước ngọt là cư trú được. Nhật đã từng xuống Đài Loan trong thế kỷ XVII, đến Hạ Uy Di trong thế kỷ XVIII, thám hiểm quần đảo Kouriles năm 1976, khi thấy người Nga lập công ty bán da thú, thận hải cẩu ở đây. Năm 1800, Nhật đã chính thức dùng cờ trắng mặt trời đỏ để làm huy hiệu quôc gia, thượng quốc kỳ trên các thuyền bè chạy đường Kouriles-Edo. 
 
Thật là một viễn kiến chính trị vô địch khi hơn một thế kỷ về trước, năm 1654, lúc tướng Nga là Khabaraff, Stepannoff đến giang khẩu sông Hắc Long, những người Nhật đã lo ngại người Nga vượt biển. Rồi người Nga vượt biển, do những nhiệp cầu quần đảo Kouriles, họ mon nen đến gần Nhật. Nga là dân đại lục mà đến chi đây? Họ đến được đây, thế tất là trên hành trình muôn dặm, họ đã chinh phục được nhiều dân tộc, nhiều sắc tộc. Bằng bất cứ mọi gía, phải đẩy người Nga lên bờ đại lục mới xong…
 
Năm 1875, Nhật Nga ký hiệp ước, thỏa thuận chia nhau các hải đảo. Quần đảo Kouriles thuộc về Nhật, đảo Sakhaline thuộc về Nga. Nhật phải bù cho Nga một số tiền và được quyền đánh cá trong biển Okhostk ở duyên biên Sibir (Tây Bá Lợi Á). Như vậy cả Nga lẫn Nhật, ai cũng có cảm tưởng mình đã đạt được ít thành công. Nga vẫn còn gần Nhật vì còn đảo Sakhaline, Nhật đã đẩy lui được một mũi trường kiếm của Nga chĩa vào lưng mình, chỉ còn lại một mũi. Cố nhiên là chịu một mũi kiếm đỡ nguy hiểm hơn là bị thọc mũi dùi ở cả hai đường. Nhưng an ninh quốc gia hoàn toàn chưa có. Thật là chuyện nam giải mà hiện thời chưa có thể giải quyết dứt khoát bằng võ lực cho xong xuôi, dứt khoát khỏi bận lòng lo nghĩ về sau. 
 
Từ những đợt sóng gío lạnh ở các biển phương Bắc đến những hải lưu ấm áp ở các biển phương Nam, nơi nào có hải đảo là nơi ấy thích hợp với sự bành trướng cúa Nhật. Tiến thêm một bước thì trong cuộc chiến tranh đầu thế kỷ, Nhật đã tranh được một nửa đảo Sakhaline. Ngày ký hòa ước với Nga, chính phủ Nhật không dám công bố kết quả. Vì sợ dân chúng phẫn nộ mà ác hại thay, sự phẫn nộ ấy lại có lý qúa chừng. Tại sao chiến thắng lẫy lừng ở Lữ Thuận, Phung Thiên mà các nhà ngoại giao lại chỉ dám đòi có nửa đảo? Mà đảo ấy đâu có phải là đảo của Nga? Thổ dân là người Ainou, sắc tộc này đã lệ thuộc và đồng hóa vào dân Nhật một phần lớn. Sao các nhà ngoại giao Nhật lại khiếp nhược và bất tài đến nỗi không dám nhân danh dân Ainou mà đòi trọn đảo cho rồi? Nga không chịu nhường thì bất qúa đánh nhau thêm vài trận nữa. Quân dân sẵn sàng xông trận để đẩy Nga lên bờ đại lục cho yên.
 
Từ lúc Hayasky Sihei viết sách tố cáo trước dư luận quốc nội nguy cơ của Nga đối với an ninh lãnh thổ Nhật đến nay đã 141 năm, dân Nhật đã thấm nhuần ý thức phải đánh bại Nga để mưu cuộc sinh tồn, tại sao chính phủ lại không dựa vào ý dân, dân tâm mà cương quyết thì đòi chiếm lĩnh trọn đảo Khố Diệp cho kỳ được? Lưỡi guơm Nga đã bị bẻ gãy một nửa nhưng địch thủ vẫn còn giữ được một phần cán để rồi có dịp sẽ múa gươm gẫy mà đánh rấn tới, đoạt lại phần đất đã nhường… 
 
Dân chúng thất vọng xót xa phải có chỉ dụ trấn tĩnh của Thiên Hoàng Minh Trị họ mới không bạo động.
 
Đảo quốc không bao giờ muốn thấy một cường quốc đại lục đến gần mình. Cường quốc đại lục nào lại không sẵn sàng coi đảo quốc như những mảnh vỡ thuộc về đại lục? Có quan niện như thế mới huy động được dân chúng tác chiến khi cần. 
 
Hải lục chia đôi đường, có sự cách biệt phân minh thì mới đỡ tranh chấp và tranh chiến.
 
QUỐC KẾ TỔN THƯƠNG – TRỜI CHUNG KHÓ ĐỘI  
 
Bom nguyên tử rớt xuống Trường Kỳ, Quảng Đảo vài trăm ngàn người thương vong. Hơn một phần tư thế kỷ sau vẫn có người tử nạn vì vết thương phóng xạ tuyến. Sự việc tuy đau lòng và khủng khiếp, song nếu số nạn nhân lên đến một triệu đi nữa thì sự thực cũng chưa tổn hại gì đối với số dân trăm triệu của Nhật Bản hiện giờ. Dân Nhật không có cái tâm lý bồn chồn vì một vài ngàn tù binh như dân Mỹ. Vậy mà sao quân Mỹ trú phòng ở căn cứ Xung Thăng (Okinawa) thì bị dân Nhật biểu tình phản đối, xua đuổi như đuổi tà ma? Dân Nhật cũng thừa biết rằng lính Mỹ ở trên đất mình, mình có những dịch vụ để thu ngoại tệ. Tích trữ Mỹ kim thì cũng như tích trữ vàng. Cho dẫu rằng năm 1971, đồng Mỹ kim có xuống gía chút đỉnh thì đó cũng chưa phải là duyên cớ chính đáng va sâu xa để dân Nhật tận tình tống khứ lính Mỹ, tự mình cắt đứt mất của mình một nguồn ngoại tệ. 
 
Kẻ thù là kẻ thù mà tiền của kẻ thù thì vẫn cứ là tiền có thể xài được lắm. Tưởng niện những người tử nạn bom nguyên tử mà chê tiền chẳng hóa ra thất sách lắm hay sao? Sống với tiền, vì tiền chứ ai lại sống sướng, sống đủ tiện nghi với hoài niệm lịch sử? 
 
Sau thế chiến, Nhật bị đẩy ra biển, bỏ lại hết công trình kinh doanh ở Triều Tiên và Mãn Châu. Mãn Châu là một vùng trang bị kỹ nghệ nặng rất quy mô, được cái mỹ danh là Rhur Asiatique, Rhur là vùng kỹ nghệ trọng yếu của Đức, Đức phục hưng mau chóng cũng nhờ sắt thép, than đá của vùng Rhur. Nhưng mất Mãn Châu rồi Nhật cũng cứ phục hưng nhanh chóng như thường, ngang hàng rồi vượt hàng Tây Đức về kỹ nghệ. 
 
Cố gắng ngoi lên bờ dại lục rồi lại bị người ta đẩy rơi xuống biển. Nhật đã bị đẩy rơi xuống biển nhiều lần. Yi Soon Si, thủa sư đô đốc Đại Hàn, sáng chế tàu rùa, tầu lặn đầu tiên trên thế giới, đánh cho quân xâm lược của Phong Thần Tú Cát tan tành. Đã quen nếm mùi thất bại kiểu này, Nhật không coi đó là mối thù trời chung chẳng đội… Biết đâu, thời thế vần xoay, biển dâu thay đổi, ngụp lặn ngoài biển rồi cũng có dịp bò lên.
 
Nhật lại bị dồn lên phương bắc, giao hoàn Đài Loan cho Trung Hoa Dân Quốc sau 50 năm khó nhọc kinh doanh. Tiếc thì có tiếc nhưng ở Đài Loan, dân Tàu nhiều, dân Nhật ít, cho dẫu còn giữ được Đài Loan đi nữa thì lẽ tự nhiên dân Tàu vẫn là kẻ hưởng lợi nhiều hơn. 
 
Điều làm cho Nhật đau lòng nát dạ không thể nguôi quên là quần đảo Hạ Uy Di biến thành tiểu bang thứ 50 của Mỹ. Tại đây, kiều dân Nhật đến sinh cư lập nghiệp đã vài trăm năm, thâm căn cố đế, còn hơn người Mỹ ở Hiệp Chủng Quốc nữa. Miền Viễn Tây (Far West) người Mỹ tạp chủng mới bá chiếm từ thế kỷ XIX chứ nào phải năm tháng đã xa với gì. So với người Nhật ở Hạ Uy Di thì chủ quyền lịch sử của Nhật có nguồn gốc sâu xa, dân Nhật chiếm gần 2/3 tổng số dân chúng. Người Mỹ chìm trong số người da trắng mà người da trắng thì chỉ chiếm 10%, một tỉ lệ còn thua cả người Tàu. Mỹ đã khôn khéo viện cớ thực thi dân chủ cho hợp với trào lưu tiến bộ văn minh của nhân loại, ép vua Kala Kana phải tổ chức bầu cử, triệu tập Quốc Hội. Bọn dân biểu tay sai của tài phiệt, đắc cử nhờ những thủ đoạn gian manh, nhem nhuốc, báo ơn thí chủ bằng cách biểu quyết cho Mỹ thuê Trân Châu Cảng để lo việc phòng thủ chung. (Năm 1887) Quốc Vương Hạ Uy Di là Kala Kana nuốt hận mà băng hà và ngày nay người Polynésien chỉ chiếm được tỉ lệ 3% dân số. Họ là dân thiểu số ngay trên lãnh thổ tổ tiên. 
 
Sau thế chiến, người Nhật bị bứng đi ở các quần đảo Mariannes, Marshall mà Nhật đã giành được trong tay Đức từ thời Âu chiến. Kiều dân Nhật đến các đảo ấy trồng dừa, trồng chuối, khai hoang, lập ấp, sinh con đẻ cháu đã vài đời. Nhật đáng bị đuổi đi, nỗi oan khổ bơ vơ nói sao cho xiết! 
 
Thế là hy vọng Nam Tiến của Nhật tiêu tan thành mây khói. Cho dẫu có ngày khôi phục được oai võ thì cũng không còn đâu căn cứ để dụng võ tranh hùng ở Nam phần Thái Bình Dương. Đảo Guam, căn cứ hải không quân trọng yếu của Mỹ chính ở trong quần đảo Mariannes vậy. Á Châu của người Châu Á, nhưng đảo Guam là căn cứ Mỹ muôn năm! Quần đảo Mariannes bất qúa chỉ nuôi nổi vài trăm ngàn dân, gía trị kinh tế không lấy gì làm to nhưng gía trị chiến lược lại vô cùng trọng yếu. Phi cơ phản lực Mỹ từ đảo Guam có thể can thiệp vào chiến cuộc Việt Nam và đã can thiệp nhiều phen rồi.
Nhật mất tuốt những tiền đồn dụng võ ở phương Nam. Một sự mất mát ngăn trở rất nhiều cho những mưu tính tương lai của Nhật. Phe Đồng Minh thắng trận đổ cho Nhật cái lỗi gây ra chiến cuộc Thái Bình Dương. Sự thực lịch sử thì chính Mỹ gây ra, nhưng cái lý của kẻ chiến thắng đạp phăng lên trên sự thực để mà thành một cái ly rất mạnh.
 
Nhật có thể thực hiện Nam Tiến bằng sách lược kinh tế, những thương thuyền đi về Đông Nam Á thiếu những nơi đình bạc thuận tiện, gặp trường hợp chiến tranh thì những đoàn thương thuyền ấy chỉ dùng làm mồi cho đối phương triệt kích bằng tiềm thủy đĩnh mà thôi. Muốn có sự bảo vệ hữu hiệu, Nhật phải cầu cứu với Mỹ. Gỉa sử Mỹ chần chờ một chút là nền thương mại viễn dương của Nhật bị tổn thương ngay. 
 
Mỹ nâng đỡ cho Nhật tổ chức những đoàn Nhân dân Tự vệ trang bị võ khí hết sức tối tân nhưng lực lượng ấy chỉ dùng để dọa nạt, kềm hãm Hoa Lục chứ không dùng để bảo vệ các cuộc hải trình thương mãi của Nhật được. Có sức mạnh mà thiếu căn cứ, giương mắt trao trảo nhìn quyền lợi thương mại, nguồn sống chính của quốc gia bị người ngoài uy hiếp, lúc nào họ muốn ra oai là ta phải khép nép tuân phục, tình cảnh này mà không gọi là bi đát thì không còn biết dùng 2 chữ “bi đát’’ để chỉ những trường hợp nào? 
 
Sự phú thịnh của Nhật ở trong tay Mỹ, dây da siết cổ do Mỹ nắm hết các mối, hể ương ngạnh thì sớm liệu hồn…
 
Có thể nào dân Nhật không phẩn nộ khi gợi nhớ những hải đảo mà ngày trước mình xuất nhập dễ dàng, những hải đảo mà các tay hảo hán giang hồ đã khai cơ lập nghiệp. 
 
Phẩn nộ mà vẫn phải tùng phục, hận thù mang xuống tuyền đài chưa tan.

 
 
 
(Hết chương 6) 

Chủ Nhật, 7 tháng 11, 2010

ÂM MƯU GÂY SÓNG GÍO MỸ - NHẬT

CÁC CƯỜNG-QUỐC
VÀ SÁCH-LƯỢC
THÁI-BÌNH-DƯƠNG

(Tiếp theo…)

CHƯƠNG NĂM
*********************************************************************







5.
ÂM MƯU GÂY SÓNG GÍO MỸ – NHẬT




  • Nhường cho nước Nhật khai hỏa.

  • Roosevelt: Sau Nhật phải có Nga.

  • Công đức của các nước nhược tiểu đối với Nga Sô vĩ đại






V
Đòn kinh tế khiêu khích quân sự

Monroe là một người hùng. Với khẩu hiệu “Châu mỹ của người Mỹ’’ ông đã ngăn chặn thế lực quân sự và kinh tế, chính trị của các nước thực dân Tây Âu, dành Trung, Nam Mỹ làm địa bàn hoạt động tối huệ cho Hiệp Chủng Quốc. Roosevelt cũng là một người hùng. Ông đã làm cho Mỹ nắm quyền bá chủ Thái Bình Dương sau thế chiến.

Muốn nắm quyền bá chủ Thái Bình Dương thì phải đánh đổ nước Nhật. Nhưng Hiến pháp Mỹ không để cho Tổng Thống có quyền tuyên chiến theo ý muốn của mình. Đợi Quốc Hội thảo luận, biểu quyết thì mệt lắm, lâu lắm. Tốt hơn hết là ép nước Nhật phải động binh hạ thủ trước. Mỹ trên thế tự vệ, như vậy công luận quốc tế không ai buộc tội Mỹ là thủ phạm chiến tranh. Có thể, các sử gia cũng bị mắc lừa nữa!

Năm 1941 quân Nhật từ Bắc Đông Dương tràn xuống Nam Đông Dương. Cuộc chiến tranh dai dẳng với nước Trung Hoa đã làm cho Nhật vô cùng khốn quẫn về nguyên liệu. Mỹ thừa biết nhược điểm của Nhật. Khi ép buộc nước Anh phải đóng cửa đường Miến Điện không được tiếp tế cho Quốc Quân Trung Hoa, Mỹ bèn phản ứng bằng cách cấm xuất cảng sang Nhật các loại động cơ phi thuyền và các loại máy bay, dụng cụ. Roosevelt tố cáo hiệp ước giao thương Mỹ – Nhật là lỗi thời. Rồi được trớn cấm luôn dầu hỏa, cao su, chì, đồng, kẽm, v.v…

Nhật tìm cách thương thuyết hòa hoãn, năn nỉ Mỹ bỏ lệnh cấm đi. Nhật đề nghị chấm dứt chiến tranh ở Trung Hoa, chính phủ Trùng Khánh của Tưởng Giới Thạch và chính phủ Nam Kinh của Uông Tinh Vệ hợp nhất, tất cả quyền lợi của Mỹ ở Trung Hoa đều được Nhật cam kết tôn trọng. Mãn châu Quốc được coi như chư hầu của Nhật vì Mãn châu là của người Kim, đâu phải là của Trung Hoa.

Mỹ đòi Nhật phải hạn chế bớt những bổn phận đối với Trục Sắt Tam Cường Đức, Ý, Nhật, hạn chế đến mức làm cho những điều kiện liên minh trở thành vô hiệu. Trục Sắt còn cái danh mà cái thực thì phải tiêu tan. Mãn châu không thể là thuộc quốc của Nhật được. Lệnh cấm xuất cảng dầu hỏa, kim loại, những nguyên liệu cần thiết cho kỹ nghệ Nhật vẫn cứ được duy trì, cho đến khi nào tình hình quốc tế thật sự lắng dịu!

Yêu sách kiểu đó thì ai chẳng giận sôi gan! Chiến tranh Trung Hoa – Nhật có kết liễu đi nữa mà Mỹ viện cớ chiến tranh Anh – Đức vẫn còn hay tình hình thế giới vì một lý do vì đó vẫn còn nghiêm trọng thì Mỹ vẫn có quyền cấm xuất cảng các nguyên liệu cần thiết cho kỹ nghệ Nhật như thường!

Đó là quan điểm bất di bất dịch của Mỹ từ tháng 6 năm 1941. Mỹ – Anh lại phối hợp hoạt động quân sự phòng vệ Đông Nam Á. Thủ tướng Konoye năn nỉ xin gặp Roosevelt ở Alaska hay ở Hạ Uy Di để thảo luận. Roosevelt nhất định chối từ. Đó là cách buộc Nhật phải đi đến chiến tranh với Mỹ.

Người ta cứ hay trách Nhật gây chiến vì Nhật tập kích Trân Châu Cảng thành cộng. Nhật có tuyên chiến hẳn hoi nhưng dầu không tuyên chiến thì Tổng Thống Mỹ cũng biết rõ là Nhật đánh Trân Châu Cảng. Ông biết luôn cả cái mật khẩu tấn công của Bộ Tham Mưu Nhật “Gío đông: Mưa“. Tình báo Mỹ nắm được chìa khóa mật mã của Nhật từ lâu. Khi nghe tin quân Nhật đánh phá Trân Châu Cảng tan tành rồi (đô đốc, đại tướng Mỹ còn bận du hí cuối tuần), Tổng Thống Roosevelt nói một cách rất bình tỉnh:

- This it is! (Thôi được rồi!)

Nghĩa là nước Nhật đã vào tròng rồi, đã mắc mưu rồi. 6 chiếc thiết giáp hạm bị đánh hư hao (2 chiếc chìm), 2362 người Mỹ tử trận, đó là một duyên cớ rất tốt để cho Tổng Thống Mỹ tuyên chiến với Nhật. Khả năng kỹ nghệ của Mỹ không hao tổn, làm ra tàu mới tốt hơn tàu cũ mấy hồi! Trong khi dư luận báo chí mỉa mai quân Mỹ yếu, bất tài, chính phủ Mỹ bất lực, ca ngợi quân đội Phù Tang anh dũng, bách chiến bách thắng, cơ mưu xuất nhập như thần thì Roosevelt và các cố vấn của ông khúc khích cười riêng với nhau, đắc ý lắm.

Kỹ nghệ chiến tranh phát triển sẽ đem lại công ăn việc làm cho rất nhiều người. Tuy gọi là Thế chiến nhưng chiến tranh đâu có lan đến đất Mỹ mà lo. 3 châu Âu, Á, Phi, bị tàn phá, nhất là Châu Âu địch thủ của Mỹ mà bị tàn phá cho thật nặng thì Mỹ lại càng có cơ hội làm chủ nợ thế giới, tha hồ hốt bạc!

Nhờ trận đại bại ở Trân Châu Cảng mà Mỹ đã hưởng được những quyền lợi to lớn vô cùng. Nước cờ bỏ thí Trân Châu Cảng để tối tân hóa kỹ nghệ chiến tranh là một nước cờ cao tuyệt diệu vậy.

TRÍ HỮU SỞ CÙNG: CÁO GÌA BỆNH HOẠN ĐẤU TRÍ SAO LẠI CÁO GIÀ KHANG KIỆN

Để uy hiếp nươc Nhật, Tổng Thống Roosevelt đã tuyên bố rằng:

Hoa Kỳ cần phải có một nước Đại Nga thân hữu để kèm sau lưng nước Nhật.

Luật cho vay-thuê (Prêt-bail) cho phép chính quyền Mỹ tiếp tế lương thực khí giới dồi dào cho Nga. Không phải Mỹ thương yêu vì Nga đâu. Nếu không có Nhật là đối thủ của Mỹ tại Thái Bình Dương thì Mỹ sẳn sàng bỏ Nga cho Đức đập chết. Đức là nước ở Trung Âu chỉ tiếp giáp với biển ở Bắc Hải, không nguy hiểm gì cho sự nghiệp bá chủ của Mỹ ở Đại Tây Dương, Hitler lại sợ Mỹ tung quân và tung tiền can thiệp vào Âu châu như họ đã làm từ năm 1917 nên hết sức thận trọng trong việc đương đầu với các tàu áp tải của Mỹ. Chính các tàu Mỹ lại tấn công các tầu lặn của Đức trước. Như vụ diệt ngư lôi hạm Mỹ Greer bắn thủy lôi vào tiềm thủy đĩnh Đức đương lặn. Bực qúa tiềm thủy đĩnh Đức phải nổi lên mặt nước, bắn trả. Thế là Roosevelt nổi giận, coi việc bán lại để tự vệ là hành động côn đồ và ra lệnh đánh chìm bất cứ loại tàu nào của phe trục. Đức đánh Nga, Mỹ cứu Nga bằng tiếp vận chiến, thế mà Đức chưa dám trả đũa Mỹ ngay. Uy thế của tỷ phú Sam lớn thật. Mỹ muốn đánh thắng Nhật nhưng biết rằng lính Nhật có tinh thần cảm tử rất cao. Trái lại lính Mỹ ra trận với tác phong công tử. Anh nhà giàu nào lại không úy tử tham sinh? Sợ bom đạn, sợ thương vong mà lại muốn thắng trận thì chỉ còn có cách chi tiền để người khác phải đánh giặc thế cho mình. Ý nghĩa cao qúi trong việc ban hành, “luật vay-thuê’’ là như vậy. Đất Nhật hẹp, được gọi một cách hết sức tượng hình là Phù Tang tam đảo mà lại bị hai anh chàng khổng lồ vây đánh hai đầu thì sức mấy mà chẳng thua tan?

Mỹ lại muốn Nhật rút chân ra khỏi lục địa Á Châu. Bán đảo Triều Tiên, về phương diện quân sự, được coi là một chiếc cầu nối liền Hoa Lục và đảo quốc Phù Tang. Mãn Châu vùng kỹ nghệ trù phú do sức kinh doanh của Nhật là một địa bàn tốt để Nhật tùy cơ tiến xuống Hoa Bắc hay lấn lên đất Sibir. Nhật ở Mãn Châu khác nào một lưỡi gươm thọc vào lưng Nga, Nga chịu thế nào được? Sớm muộn gì thì Nga cũng nhổ thanh gươm ấy đi. Cho khỏi đau khổ và để rửa luôn cái nhục chiến bại năm 1905 nữa. Dầu Mỹ không yêu cầu hễ có dịp thuận tiện là Nga can thiệp quân sự vào Mãn Châu ngay. Chiến thắng thì tha hồ đoạt của!

Thế là tại Hội nghị Yalta trên bờ Hắc Hải, mùa xuân năm 1945, Roosevelt lại hứa cho Nga quần đảo Kouriles là quần đảo mà Nhật đã mua lại của Nga chứ đâu có phải chiếm cứ ngang xương. Nhưng mà thôi được, lấy của làng làm ơn cho ông xã có sao đâu? Đất đảo gì của mình mà tiếc! Thêm nữa, bọn Nhật đáng ghét lắm. Ai đời chỉ có một quần đảo Bonin dài 8 cây số, rộng 4 cây số mà quân Nhật phòng thủ rất là gắt gao. 22.000 lính tử trận gần hết, chỉ có 212 thương binh trầm trọng là bị bắt mà thôi. Quân Mỹ tử trận cũng bộn! Đánh giặc cái kiểu này thì chán lắm. Đây chỉ là một quần đảo nhỏ mọn mà Thủy quân Lục chiến đã khó lòng đắc ý… nói gì đến khi lên các đảo chính của Nhật thì mới sao nữa, hở Trời?

Averell Harriman (sau này còn phó hội Balê mùa hạ năm Mậu Thân 1968) lúc đó làm cố vấn cho Tổng Thống Roosevelt có ý tiếc về những nhượng bộ của Mỹ đối với Nga ở miền Đông Bắc Á. Nhưng mà ông đã không tận lực can ngăn. Nói cho đúng sự thật, hồi đó bom nguyên tử chưa hoàn thành. Roosevelt thì đương đau yếu, bệnh hoạn. Trái lại Stalin sức khỏe rất dồi dào, chỉ có một mình Winston Churchill là hiểu một cách thấu triệt những tham vọng của Nga ở Đông Âu và ở Đông Bắc Á. Nhưng nuớc Anh đương nhờ vả nước Mỹ mới có phương tiện chiến đấu, tiếng nói của con nợ đối với chủ nợ đâu có được nặng cân.

Chẳng những Nga đã chiếm thượng phong với Mỹ ở Đông Bắc Á và Đông Âu, Nga lại còn tự coi như chỉ có mình mới đủ sức đánh tan quân Nhật, Đến khi Mỹ đã hoàn thành bom nguyên tử, Mỹ muốn can ngăn Nga đừng có hành binh ở Mãn Châu nữa nhưng Nga đâu có chịu nghe lời. sau khi bom nguyên tử đã trút xuống Trường Kỳ và Quảng Đảo rồi, Nga mới chịu ra quân. Rốt cuộc trong một cuộc biểu dương lực lượng, dạo mát quân sự kéo dài một tuần, Nga đã tước đoạt cơ sở kỹ nghệ của Nhật ở Mãn Châu một số vốn đến 2 tỷ Mỹ kim hồi đó.

Phần thưởng quần đảo Kouriles mà Mỹ đã hứa hẹn và đảo Khố Diệp làm tăng gía trị phòng ngự cho quân cảng Hải Sâm Uy. Khi không mà Mỹ rước cọp đến gần các căn cứ của mình ở đất Nhật để thêm phần lo sợ…

Hội Nghị Yalta đã di hại rất nhiều cho sách luợc Mỹ ở Thái Bình Dương. Mỹ không nhìn rộng thấy xa, chỉ chăm chăm một việc làm cho nước Nhật suy yếu, thất thế hoàn toàn về quân sự. Đến khi thời thế biến chuyển, Mỹ cần Nhật làm một hải đài, phía tây canh chừng Hoa Lục, phía bắc ngăn đón tham vọng bành trướng của Nga thì Nhật đã bị tước đoạt các đảo chiến lược trọng yếu.

Làm chính trị, tranh bá đồ vương trong thiên hạ mà nhãn quan cận thị thì dẫu có tiền rừng bạc biển, khí giới lương thực như trường sơn điệp điệp cũng khó lòng tránh khỏi những bước thất ý ngỡ ngàng.

SỰ HẢNH DIỆN ĐAU KHỔ CỦA CÁC NƯỚC NHƯỢC TIỂU ĐÔNG NAM Á

Đông Nam Á, ngay từ đời Tần Hán đã nổi tiếng là Kim Địa (Chersonèse d’Or) vang lừng đến Tây Phương. Nhiều miền ở đây được đặt tên có chữ kim như Kim Lân là Miến Điện, Kim Đảo (Poulo Mas) là Sumatra, quế gừng, riềng, hồ tiêu, gỗ mun, gỗ teck, sừng tê, ngà voi, đủ thứ kỳ trân dị bảo. Trầm hương, kỳ nam là những hương liệu qúi gía hấp dẫn, khiến cho người Á Rập phải lặn lội đi tìm, bất chấp ba đào nguy hiểm.

Các cường quốc ở thế kỷ XX tuy vẫn qúi những món đó nhưng họ muốn chiếm đoạt những nguyên liệu cần thiết và có lợi hơn nhiều. Cao su, dầu hỏa, thiết, đồng, sắt, lúa gạo, kỹ nghệ và nông nghiệp phát triển mạnh mẽ rất lợi cho các nước viễn chinh Anh, Pháp, Hòa Lan đã hưởng nhiều lợi lộc đáng kể. Nhật là nước mới trở thành cường quốc đầu thế kỷ XX, những đất giàu đã bị thiên hạ chiếm đoạt mất hết. Mình không còn một chổ chen chân.

Đã thế mà gã tỷ phú Mỹ còn bày ra trò cấm nhập cảng nguyên liệu. Nguy cho Nhật biết đường nào! Những quân đội phòng thủ thuộc địa của Anh, Pháp, Mỹ, Hòa Lan, đều không thể địch nổi quân Nhật. Yếu tố quan trọng là tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Người lính Nhật sinh trưởng trong truyền thống trung quân ái quốc, hiểu rằng đây là cuộc chiến đấu sinh tử tồn vong, họ phải thắng để cho Tổ Quốc trường tồn, lui bước nhường quân địch là dẫn mình vào cõi chết ô nhục, không chết tức khắc thì cũng chết mòn trong cuộc đời vong quốc nô. Trái lại, lính Anh, Pháp, Mỹ, Hòa Lan sống ở thuộc địa lâu ngày, quen dùng cặp mắt người thượng quốc xem khinh dân bản xứ, tự cao tự đại, cứ tưởng rằng mình vô địch trên cõi trần gian. Ăn sung mặc sướng, quen nết mất rồi, chịu gian khổ chiến trường sao nổi? Dân bản xứ có nổi loạn, họ chỉ bắng vài phát súng là xong. Cần gì phải luyện tập kỹ thuật chiến đấu học tập chiến lược, chiến thuật?

Một yếu tố thứ hai nữa là quân anh, Pháp, Mỹ, Hòa Lan bị dân bản xứ thù ghét, dân bản xứ chưa biết nhận diện thực dân da vàng nhưng tổ tiên, cha con họ có thừa kinh nghiệm trực tiếp bản thân về các quan lớn thực dân da trắng. Ở thuộc địa, một tên lính da trắng mạt hạng cũng bắt dân bản xứ đối với mình như một vị quan lớn thì mới thỏa lòng. Người Nhật với cái chủ thuyết Đại Đông Á mưu cầu thịnh vượng chung đã tranh thủ được cảm tình của dân bản xứ náo nức một sự thay đổi mà chưa biết sự khổ nhục đổi chủ thay thầy.

Quân Nhật từ Đông Dương đổ bộ lên Mã Lai, xông vào rừng rậm, vượt qua 640 cây số “ địa ngục xanh’’ bất chấp đỉa, vắt, muỗi mòng, sơn lam chướng khí, tiến về Tân Gia Ba. Ở Miến Điện, Phi Luật Tân, Nam Dương quần đảo, nơi nào quân Nhật cũng chỉ gặp một sự chống cự yếu ớt. Liên quân ABDA (Mỹ, Anh, Hòa, Úc) bại tẩu liền liền. Ở Tân Gia Ba 70.000 quân Anh thiếu nước uống phải treo cờ trắng.

Quân Nhật có thực hiện chương trình Nam tiến thì quân Nga ở đất Sibir mới dám triệt thoái, di chuyển sang mặt trận Đông Âu, cứu vãn nguy cơ đang đè nặng lên thủ đô Mạc Tư Khoa của Hồng quân.

Giả sử năm 1941, quân Nhật không dồn về Đông Nam Á mà lại nhảy lên tỉnh Hải Dương (Khaborowsky) của Nga ở Sibir thì sao? Chắc chắn là Mạc Tư Khoa thất thủ. Giòng lịch sử chuyển sang hướng khác mất rồi. Kho tài nguyên phong phú của Đông Nam Á đã cứu mạng Nga Sô, “thành trì của cách mạng thế giới’’. Để rồi các lãnh tụ Cộng quân được huấn luyện ở Nga hay ở Hoa Lục về đây quấy rối, đem lại rất nhiều đau khổ tang tóc của đám dân bản xứ hâm mộ hòa bình.

Lão tử nói “tài đa lụy thân’’. Của cải nhiều làm cho mình khổ sở. Đúng qúa chừng đi.

Muốn khỏi khổ thì nên liên kết với nhau để tạo thành một sức mạnh bảo vệ hữu hiệu. Bằng không thì kho tài nguyên dồi dào đó làm cho thiên hạ thèm muốn, bâu lại xâu xé, mình ở giữa tha hồ chịu trận và chết oan!

Nhất là từ lúc khám phá ra dầu hỏa dưới thềm lục địa thì lại càng nên coi chừng cái họa “tài đa lụy thân’’ to lớn hơn trước. Tài nguyên Đông Nam Á đã cứu mạng cho một siêu cường quốc nhưng không cưú nổi dân địa phương thoát khỏi sự loạn lạc, sự xâu xé tơi bời.

Chừng nào người Đông Nam Á mới có đủ sức mạnh để nói một câu hợp với quyền lợi chính đáng của mình.

Tài nguyên Đông Nam Á phải đem lại quyền lợi cho người Đông Nam Á trước đã.







(Hết chương 5)