Hiển thị các bài đăng có nhãn Đạo Lý Nhân Sinh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đạo Lý Nhân Sinh. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2014

Hoa và Hiệp sĩ


George Ohsawa.

 
Ngày xưa ở Nhật Bản, các hiệp sĩ (Samurai) trẻ tuổi đều biết nghệ thuật cắm hoa, vì đây là một môn học trong chương trình huấn luyện của họ. Cùng với tài cắm hoa, họ trồng cây thu nhỏ (Bonsai) nổi tiếng đáng giá cả gia tài.
 

 
Chuyện kể về hoa rất nhiều, chuyện nào cũng hấp dẫn người nghe, chẳng hạn như câu chuyện sau đây. Trong một đêm đông tuyết giá, một võ sĩ nghèo cứu một nhà sư gần chết cóng. Để có củi nhen sưởi ấm cho ông, chàng đã chặt các cây cảnh quý – gia tài và tình yêu duy nhất của mình. Đâu ngờ nhà sư chính là Đại hoàng thân Tokiyori tốt bụng, và thế là chàng võ sĩ giàu lòng nhân ái được tưởng thưởng xứng đáng. Đó là đề tài một vở kịch nổi tiếng có từ thời Tokugawa, đến nay vẫn được trình diễn, và mỗi lần trình diễn, sự hy sinh cao cả, sự hy sinh cao cả của người võ sĩ cùng số phận hẩm hiu của những cây cảnh đẹp vẫn còn làm khán giả mủi lòng rơi lệ.
 
Người Trung Quốc xưa dùng hai động từ diễn tả khả năng nhìn thấy: “thị” là thấy bằng mắt, và “ngộ” là thấy bằng tâm hồn. Vậy đôi khi cũng nên nhắm cặp mắt xác thịt và mở con mắt tinh thần để thưởng thức một cụm hoa Nhật Bản. Các đóa hoa tượng trưng một thời tươi đẹp, và với vẻ yên lặng dịu mềm, hoa đưa ta ra ngoài biên giới của thời gian. Những đường nét uyển chuyển của hoa không chỉ đẹp mắt, mà còn chứa đựng bí ẩn của tạo hóa, bí ẩn này chỉ phơi bày với những ai biết trân trọng ngắm nhìn.
 
Đám trẻ con Nhật bản lớn lên giữa những bông hoa. Chúng thấy mẹ cha kính cẩn mang hoa cắm vào lọ quý đặt trên bàn thờ. Dù trong những nhà nghèo nhất, chúng cũng thấy hoa trên bàn thờ tổ tiên ngày tết. Không buộc phải có hoa lạ, hoa quý, hồn thiêng tiên tổ mới hài lòng. Hoa đồng mộc mạc cũng đủ lắm rồi, và còn lý tưởng nữa là khác, vì hoa đồng gợi nhớ hương vị của thiên nhiên. Những bậc thầy của nghệ thuật hoa cảnh và những nghệ nhân chân chính không bao giờ khinh bỉ các loại hoa dại. Họ thường đưa học trò ra đồng, đến ven rừng hay bờ ao, và sau khi ra đề mục sáng tác, họ để từng đệ tử diễn tả cảm xúc của mình trước những bông hoa dại. Người ta xem tất cả các loài hoa đều thiêng liêng, tuy ở nhiều mức độ khác nhau, đầu đàn là hoa Cúc, loài hoa dành cho nhà vua, thường dân không được phép vẽ thêu trên y phục của mình. Phụ nữ Nhật Bản bắt đầu được dạy nghệ thuật cắm hoa từ năm 12 tuổi. Nếu người mẹ có thì giờ rảnh rỗi thì chính bà truyền dạy cho con, bằng không, cô gái được gởi đến học với một bậc thầy. Đức tính khiêm tốn, yên lặng, dịu dàng của hoa được nêu cao để các cô gái noi theo.
 
          
 
Thực ra, hoa có đủ tính nết như con người. Nghe thế, chắc hẳn những người có đầu óc thực dụng, quen nhìn những hình thể rắn chắc ở phương Tây sẽ phì cười, nhưng đừng quên rằng tuy đã phủ bên ngoài một lớp sơn hiện đại, người Nhật vẫn giữ được tâm trạng mộc mạc hồn nhiên không khác mấy với tổ tiên họ ngày trước. Cũng như người nguyên thủy, họ gán cho mỗi sự vật một linh hồn, linh hồn nghiêm khắc, tàn nhẫn cho một số sự vật, và linh hồn quảng đại, bao dung cho những sự vật khác nhau như hoa chẳng hạn.
 
Trong thiên nhiên, tất cả đều đẹp, đều tốt lành hoàn hảo. Chỉ tại những tật xấu đáng ghét, những dục vọng thấp hèn của con người làm tất cả hư hỏng, suy đồi, còn thiên nhiên vẫn là nguồn thanh khiết, mà hoa là những gì được thiên nhiên chắt chiu bảo dưỡng thì làm sao không thể yêu hoa?
 
Phải yêu hoa nếu muốn tỏ lòng biết ơn trời đất, và có yêu hoa, ta mới thấy mình hòa hợp với thế gian. Không nên dùng hoa với những chủ tâm phàm tục. Không nên trình bày những bó hoa, bình hoa và những chậu cây cảnh thu nhỏ như những mô hình thực vật mất tính hiện thực và quân bình, không còn là biểu tượng của nghệ thuật và chỉ phục vụ cho tính cách phù phiếm của con người. Hoa dùng để biểu dương vinh quang của tạo hóa, chứ không phải để phô trương thanh thế của phàm nhân. Chơi hoa không những là một nghệ thuật, mà còn là một triết lý đạo đức bày tỏ nhân sinh.
 
Những tài liệu cổ xưa về nghệ thuật hoa cảnh còn giữ đến ngày nay khá nhiều. Sách xưa nhất là quyển Tuyên Truyền Thư (Sendensho) viết cách đây hơn 6 thế kỷ, có nêu khoảng 50 quy tắc giúp hiểu sơ bộ ngôn ngữ tượng trưng của các loài hoa. Trong sách có chỉ rõ những loài hoa nào thích hợp với các chiến sĩ trước khi ra trận, không nên có cành lá nào rũ xuống vì gợi sự yếu đuối, mà phải mang dáng hình cứng cáp, mạnh mẽ, đầy nhựa sống như loài Tùng, lúc nào cũng xanh, chứ đừng dùng cây Phong lan hay hoa Trà ẻo lả hoặc các loài hoa chóng tàn.
 

 
Một trái táo rơi đã tạo cho Newton cơ hội tìm ra các nguyên lý về hấp dẫn lực. Nhưng đối với người Nhật, chỉ cần một chiếc lá rơi giữa những sắc màu diễm lệ của mùa thu cũng đủ cho họ thấy sự hư ảo của mọi vật, sự chóng qua của tất cả những gì mà một kẻ điên rồ mới muốn giữ mãi, cũng như sự chán chường do vật chất hữu hình gây ra. Dù trải qua bao thế kỷ, người không được thừa hưởng lòng quý chuộng những gì hư linh, vô hình vô thể, thì một sự kiện nhỏ nhoi đó cũng gợi sáng trong tâm. Chỉ có người điếc tâm hồn mới không nghe được tiếng nói của hoa lá cỏ cây. Hoa có tiếng nói của hoa, cũng như tất cả những cảnh vật thiên nhiên đều có tiếng nói. Người Nhật biết nghe lời nói của hoa lá, cỏ cây, côn trùng và chim chóc.

 
Lạc Sinh
(Trích dịch từ Le Livre dec Fleurs,
nhà xuất bản Plon, Paris 1974).

 

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2014

Sự sống trái đất là một tương quan huyền nhiệm của vũ trụ

 
Nếu các bạn nào đã từng thao tác những công việc đồng áng hay trồng cây ăn trái, sẽ nhận ra tất cả đều lớn lên từ đất, hay nói cách khác: đất là mẹ sinh ra muôn loài, kể cả mọi thân xác động vật, loài người đều cùng nhờ đất nuôi dưỡng, cho ta những thức ăn mới tồn tại (đây là nói về thân xác). Riêng Thánh kinh Thiên Chúa giáo cũng nói: " Thượng Đế nắn chúng ta từ cát bụi theo hình ảnh của Ngài, rồi hà sinh khí vào tức thì chúng ta trở thành vật sống". 
 
Suy rộng ra, đất bao gồm cả hành tinh chúng ta đang sống, tức là trái đất. Theo cái nhìn khoa học thì sự sống của trái đất chúng ta trước tiên luôn bị mọi ảnh hưởng chi phối chung trong Thái Dương Hệ, vì thế nên mới có thời tiết bốn mùa nắng mưa và những hiện tượng thiên tai bất thường thay đổi! Theo triết lý nhân sinh quan của Ấn Độ giáo hay Phật giáo thì sự sống của trái đất kể cả mọi loài mọi vật, riêng nói về thân xác luôn được cấu tạo bởi các hợp thể: Nước, lửa, gío, đất hay cát bụi (Nhà Phật gọi đó là "Tứ đại giai không").

Đi từ suy luận trên, ta có thể đoán rằng trong vũ trụ còn có vô cùng tận những dải Ngân Hà với vô số những vì sao cũng có sức nóng thiêu đốt như Mặt trời trong Thái Dương hệ chúng ta đang sống, nên chắc chắn ta có thể tin rằng ngoài Thái Dương hệ chúng ta, còn có sự sống ở những Ngân hà khác trong vũ trụ; bởi hội đủ những cấu tạo hợp thể Tứ đại từ nước, lửa, gío, và xác thể đất hay cát bụi từ hành tinh để tạo nên sự sống; ví như cây cối đến thân xác muôn loài đều ảnh hưởng sinh tồn từ hợp thể Tứ đại gắn liền với hành tinh ta đang sống.


Vũ trụ này có sự tương quan huyền nhiệm giữa Tạo Hóa và muôn loài. Vũ trụ với thời gian và không gian là vô cùng vô tận, không có khởi đầu và cũng không có kết thúc. Kẻ đạt đạo thoát ly khỏi sinh tử bằng cái thấy thường hằng nơi vũ trụ vốn vô thủy, vô chung.
 
@Phạm Thiên Thơ

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

DANH NGÔN CỦA ĐỨC DALAI LAMA


 50 DANH NGÔN CỦA ĐỨC DALAI LAMA 14
 
 

 
Trong thời gian làm trưởng Ban tổ chức Pháp hội đức Dalai Lama 14 thuyết giảng cho cộng đồng Việt Nam tại Tu viện Namgyal, Dharmasala, Ấn Độ, từ ngày 1-3/7/2013, tôi có cơ hội đọc các danh ngôn của đức Dalai Lama được viết thành thư pháp trong Phòng phát hành của tu viện. Tìm thêm trên trang Wikiquote và Ineedmotivation.com, tôi tuyển chọn thêm, phân loại và dịch sát nghĩa 50 câu danh ngôn dưới đây. Hy vọng, các danh ngôn này soi sáng và giúp chúng ta sống hạnh phúc bây giờ và tại đây.

TRIẾT LÝ SỐNG BÌNH DỊ

1- Hạnh phúc không phải là thứ có sẵn.
Hạnh phúc đến từ hành động của chính ta 
(Happiness is not something ready-made. It comes from your own actions).


2- Nếu có thể, hãy giúp người khác. Nếu không có thể thì ít nhất không nên hại ai 
(If you can, help others; if you cannot do that, at least do not harm them).

3- Nếu bạn muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu bạn muốn được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi 
(If you want others to be happy, practice compassion. If you want to be happy, practice compassion).

4- Tôn giáo của tôi rất đơn giản. Tôn giáo của tôi là sự tử tế 
(My religion is very simple. My religion is kindness).


5- Hãy nhớ rằng khi không đạt được những gì bạn muốn, đôi lúc, lại là sự may mắn tuyệt vời 
(Remember that not getting what you want is sometimes a wonderful stroke of luck).

6- Thẩm quyền tuyệt đối luôn dựa vào lý trí và sự phân tích nghiêm túc 

(The ultimate authority must always rest with the individual’s own reason and critical analysis).

7- Chúng ta có thể sống thiếu tôn giáo và thiền định, nhưng chúng ta không thể tồn tại nếu không có tình người 
(We can live without religion and meditation, but we cannot survive without human affection).

8- Chúng ta không bao giờ đạt được hòa bình trên thế giới, ngoại trừ chúng ta phải thực sự có hòa bình trong chính mình 
(We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves).

9- Hãy trở nên tử tế bất cứ khi nào có thể. Trên thực tế, ai cũng có thể trở nên tử tế 
(Be kind whenever possible. It is always possible).

10- Nếu bạn có sợ hãi về nỗi khổ niềm đau, bạn nên quan sát xem bạn có thể làm được gì với nó. Nếu bạn có thể, không có gì phải lo lắng về nó. Nếu bạn không thể làm được, lại càng không nên lo lắng về nó 
(If you have fear of some pain or suffering, you should examine whether there is anything you can do about it. If you can, there is no need to worry about it; if you cannot do anything, then there is also no need to worry).


LỜI VÀNG


11- Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác. 
(If you don’t love yourself, you cannot love others. If you have no compassion for yourself then you are not able of developing compassion for others).


12- Tiềm năng con người vốn bằng nhau ở mỗi người. Cảm giác: “tôi không có giá trị” là sai lầm. Hoàn toàn sai lầm. Bạn đang lừa dối chính mình. Chúng ta có năng lực tư duy, do vậy, thử hỏi ta thiếu cái gì đây? Nếu ta có năng lực ý chí, bạn có thể thay đổi mọi thứ. Bạn có thể nói rằng: “Bạn là chủ nhân của chính bạn.”
(Human potential is the same for all. Your feeling, “I am of no value”, is wrong. Absolutely wrong. You are deceiving yourself. We all have the power of thought – so what are you lacking? If you have willpower, then you can change anything. It is usually said that you are your own master).


13- Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại. 
(We must recognize that the suffering of one person or one nation is the suffering of humanity. That the happiness of one person or nation is the happiness of humanity).


14- Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời, bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác. 
(Through violence, you may ‘solve’ one problem, but you sow the seeds for another).

15- Khi con người còn sống, chúng ta phải nghĩ đến các thế hệ tương lai: Một môi trường sạch được xem là nhân quyền giống như bao quyền khác. Vì vậy, một phần trách nhiệm của chúng ta về người khác là đảm bảo rằng thế giới mà ta đang sống là khỏe mạnh, nếu không nói là khỏe mạnh hơn cái ta đã thấy 
(As people alive today, we must consider future generations: a clean environment is a human right like any other. It is therefore part of our responsibility toward others to ensure that the world we pass on is as healthy, if not healthier, than we found it).


16- Danh ngôn Tây Tạng có câu: “Bi kịch nên được sử dụng như nguồn sức mạnh”. Bất luận là khó khăn nào, kinh nghiệm đau khổ ra sao, nếu chúng ta đánh mất hy vọng thì đó là thảm họa đích thực (There is a saying in Tibetan, “Tragedy should be utilized as a source of strength.”No matter what sort of difficulties, how painful experience is, if we lose our hope, that’s our real disaster).



17- Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là con người hay con vật, là để cống hiến, theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới
 (The creatures that inhabit this earth-be they human beings or animals-are here to contribute, each in its own particular way, to the beauty and prosperity of the world).


18- Cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó chứa đựng. Tương tự, người ngu không thể hiểu được trí tuệ của người khôn, dù cho có thân cận bậc thánh 

(A spoon cannot taste of the food it carries. Likewise, a foolish man cannot understand the wise man´s wisdom even if he associates with a sage).

19- Trong cuộc chiến vì tự do, chân lý là vũ khí duy nhất mà chúng ta sở hữu 
(In our struggle for freedom, truth is the only weapon we possess).


20. Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực ra là biểu hiện của sức mạnh 
 (Compassion and tolerance are not a sign of weakness, but a sign of strength).


HÃY TẬN HƯỞNG HẠNH PHÚC



21. Mỗi ngày, khi thức dậy, bạn hãy nghĩ rằng hôm nay tôi may mắn còn sống, tôi có cuộc sống con người quý giá, tôi sẽ không phí phạm cuộc sống này 
(Everyday, think as you wake up, today I am fortunate to be alive, I have a precious human life, I am not going to waste it).


22. Tâm con người giống như sự nhảy dù. Nó chỉ trở nên tốt đẹp nhất khi nó ở trạng thái mở bung ra 
(The mind is like a parachute. It works best when it’s open).


23. Nếu bạn nghĩ rằng bạn quá nhỏ bé để tạo ra sự khác biệt, hãy thử ngủ với loài muỗi [rồi bạn sẽ biết] 
(If you think you are too small to make a difference, try sleeping with a mosquito).

24. Cần ghi nhận rằng tình thương vĩ đại và các thành tựu to lớn thường dính líu đến các rũi ro lớn 
(Take into account that great love and great achievements involve great risk).


25. Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm tuột mất các giá trị mà bạn có 
(Open your arms to change but don’t let go of your values).


26. Hãy nhớ rằng im lặng, thi thoảng, là câu trả lời tốt nhất (Remember that silence is sometimes the best answer).



27. Hạnh phúc con người và sự thỏa mãn con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi các thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc từ máy vi tính 
(Human happiness and human satisfaction must ultimately come from within oneself. It is wrong to expect some final satisfaction to come from money or from a computer).


28. Thật cần thiết trong việc phát khởi thiện chí và thái độ tốt, càng nhiều càng tốt. Với thiện chí và thái độ tốt, hạnh phúc, ngắn hạn và dài hạn, cho chính ta và tha nhân sẽ hiện hữu 
(It is very important to generate a good attitude, a good heart, as much as possible. From this, happiness in both the short term and the long term for both yourself and others will come).


29. Chúng ta cần hơn một chút nữa từ bi. Nếu chúng ta không thể có từ bi thì không có chính trị gia hay ảo thuật gia nào có thể cứu nguy hành tinh này 
(We need a little more compassion, and if we cannot have it then no politician or even a magician can save the planet).


30. Giới truyền thông cần có các lỗ mũi dài như con voi để ngửi thấy các chính trị gia, thị trưởng, thủ tướng và nhà kinh doanh. Chúng ta cần biết thực tại, cái tốt lẫn cái xấu, không đơn thuần chỉ là các biểu hiện bên ngoài 
(Media people should have long noses like an elephant to smell out politicians, mayors, prime ministers and businessmen. We need to know the reality, the good and the bad, not just the appearance).

VÌ MỘT THẾ GIỚI AN BÌNH

31. Tha thứ không có nghĩa là quên đi tất cả những gì đã xảy ra. Nếu điều gì đó xảy ra quá nghiêm trọng thì bạn cần phải tiến hành các biện pháp đối phó. Bạn cần có các biện pháp đối phó (Forgiveness doesn't mean forget what happened. … If something is serious and it is necessary to take counter-measures, you have to take counter-measures).



32. Hạnh phúc đích thực có được từ sự biết hài lòng và hòa bình nội tại. Sự hài lòng và hòa bình nội tại chỉ có thể đạt được thông qua sự phát triển tinh thần vị tha về tình thương, từ bi và sự diệt trừ vô minh, ích kỷ và tham lam 
(True happiness comes from a sense of inner peace and contentment, which in turn must be achieved through the cultivation of altruism, of love and compassion and elimination of ignorance, selfishness and greed).


33. Đã đến lúc cần giáo dục quần chúng ngừng lại các tranh cãi dưới danh nghĩa tôn giáo, văn hóa, quốc gia và các hệ thống chính trị và kinh tế khác nhau. Đấu tranh như thế là vô dụng và tự tử 
(The time has come to educate people, to cease all quarrels in the name of religion, culture, countries, different political or economic systems. Fighting is useless. Suicide).

34. Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì chúng chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều trị tâm. Khi tâm trở thành sự thực tập, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo 
(Religion does not mean just precepts, a temple, monastery, or other external signs, for these are subsidiary factors in taming the mind. When the mind becomes the practices, one is a practitioner of religion).


35. Tôi cảm nhận rằng tinh hoa của thực tập tâm linh là thái độ của ta đối với tha nhân. Khi bạn có động cơ chân thành và trong sáng, lúc ấy bạn sẽ có thái độ đúng với tha nhân, trên nền tảng từ bi, tình thương và sự tôn trọng. Thực tập Phật pháp] sẽ mang lại cho bạn sự nhận thức rõ ràng về tính chân như của mỗi con người và tầm quan trọng của người khác, làm lợi lạc bởi các hành vi của bạn 
(I feel that the essence of spiritual practice is your attitude toward others. When you have a pure, sincere motivation, then you have right attitude toward others based on kindness, compassion, love and respect. Dharma Practice brings the clear realisation of the oneness of all human beings and the importance of others benefiting by your actions).


36. Tâm bồ-đề là dược liệu, có khả năng làm mới và cung cấp sự sống cho mỗi chúng sanh, những ai chỉ cần nghe đến nó. Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, lúc ấy các nhu cầu của bạn đang được hoàn thiện như một phó phẩm 
(Bodhicitta is the medicine which revives and gives life to every sentient being who even hears of it. When you engage in fulfilling the needs of others, your own needs are fulfilled as a by-product).
37. Từ bi không phải là một phản ứng cảm xúc, mà là sự cam kết chắc chắn được xây dựng trên lý trí. Do vậy, thái độ từ bi thực sự đối với tha nhân sẽ không thay đổi, ngay cả trong tình huống bị người khác ứng xử tiêu cực. Từ bi đích thực không dựa trên các đề án hay sự mong đợi, mà thực ra là dựa trên nhu cầu của tha nhân (Compassion is not just an emotional response but a firm commitment founded on reason. Therefore, a truly compassionate attitude towards others does not change even if they behave negatively. Genuine compassion is based not on our own projections and expectations, but rather on the needs of the other...).

38. Các vấn nạn chúng ta đối diện ngày nay như xung đột bạo lực, sự hủy hoại thiên nhiên, nghèo đói v.v... đều là các vấn nạn do chính con người gây ra. Các vấn nạn cần được giải quyết bằng sự hiểu biết và nỗ lực của con người, cũng như sự phát triển ý thức về tình huynh đệ. Chúng ta cần phát huy tính trách nhiệm phổ quát vì nhau và vì hành tinh mà chúng ta đang chia sẻ 
(The problems we face today, violent conflicts, destruction of nature, poverty, hunger, and so on, are human-created problems which can be resolved through human effort, understanding and the development of a sense of brotherhood and sisterhood. We need to cultivate a universal responsibility for one another and the planet we share).


39. Vì chúng ta chia sẻ hành tinh nhỏ bé này, chúng ta phải học cách sống hài hòa và hòa bình, vì nhau và vì thiên nhiên. Đó không phải là giấc mơ, mà là sự cần thiết. Chúng ta tương thuộc nhau bằng nhiều cách. Chúng ta đã không thể sống trong cộng đồng cô lập và không thể bỏ qua những gì đang xảy ra ngoài cộng đồng. Chúng ta nên chia sẻ các may mắn mà chúng ta đang hưởng được

 (Because we all share this small planet earth, we have to learn to live in harmony and peace with each other and with nature. That is not just a dream, but a necessity. We are dependent on each other in so many ways, that we can no longer live in isolated communities and ignore what is happening outside those communities, and we must share the good fortune that we enjoy).

40. Mặc dù tôi nhận ra rằng đạo Phật của tôi [có giá trị] giúp ta phát khởi tâm từ bi, ngay cả đối với những ai chúng ta xem là kẻ thù, tôi tin chắc rằng mọi người có thể phát triển thiện chí và ý thức trách nhiệm phổ quát, cùng với hay không cùng với tôn giáo

 (Although I have found my own Buddhist religion helpful in generating love and compassion, even for those we consider our enemies, I am convinced that everyone can develop a good heart and a sense of universal responsibility with or without religion).

TÔN GIÁO VÀ THẾ GIỚI CỦA TÔI


41. Đây là tôn giáo đơn giản của tôi. Không cần tu viện; không cần triết học phức tạp. Bộ não và trái tim của chúng ta là chùa chiền của chúng ta; triết học là lòng tử tế 
(This is my simple religion. There is no need for temples; no need for complicated philosophy. Our own brain, our own heart is our temple; the philosophy is kindness).

42. Từ một góc nhìn, Phật giáo là một tôn giáo. Từ phương diện khác, Phật giáo là khoa học về tâm và không phải là tôn giáo. Phật giáo có thể là cây cầu giữa hai phương diện vừa nêu 

(From one viewpoint, Buddhism is a religion, from another viewpoint Buddhism is a science of mind and not a religion. Buddhism can be a bridge between these two sides).

43. Tôi không muốn cải đạo người khác theo đạo Phật. Tất cả các tôn giáo lớn, khi hiểu một cách đúng đắn, đều có tiềm năng phục vụ cái tốt 
(I don't want to convert people to Buddhism — all major religions, when understood properly, have the same potential for good).


44. Năm tháng trôi đi, càng ngày tôi càng tin rằng, bỏ qua các dị biệt về triết lý, các tôn giáo có thể làm việc cùng nhau. Mỗi tôn giáo đều nhắm tới việc phục vụ nhân sinh. Vì thế, các tôn giáo khác nhau có thể làm việc cùng nhau để phục vụ nhân loại và đóng góp cho hòa bình thế giới 
(As time passes I have firmed my conviction that all religions can work together despite fundamental differences in philosophy. Every religion aims at serving humanity. Therefore, it is possible for the various religions to work together to serve humanity and contribute to world peace).


45. Các bạn cũ ra đi, các bạn mới xuất hiện. Cũng giống như ngày tháng. Khi ngày cũ trôi qua, ngày mới lại đến. Điều quan trọng là hãy làm cho mọi thứ có ý nghĩa: một người bạn có ý nghĩa, hoặc một ngày có ý nghĩa 
(Old friends pass away, new friends appear. It is just like the days. An old day passes, a new day arrives. The important thing is to make it meaningful: a meaningful friend — or a meaningful day).

46. Giúp đỡ tha nhân là cần thiết, không chỉ trong thời khóa cầu nguyện của ta, mà phải trong đời sống thường nhật. Khi ta nhận chân rằng chúng ta không thể giúp người khác thì điều tối thiểu ta có thể làm là dừng ngay các hành động thương tổn họ 
(It is necessary to help others, not only in our prayers, but in our daily lives. If we find we cannot help others, the least we can do is to desist from harming them).

47. Chúng ta cần tự phê bình. [Chẳng hạn như] tôi đã làm được gì trong việc vượt qua giận dữ, chấp dính, hận thù, hãnh diện và ganh tỵ? Đây là những điều chúng ta cần kiểm tra trong đời sống thường nhật bằng kiến thức của lời Phật dạy 
(We must criticize ourselves. How much am I doing about my anger? About my attachment, about my hatred, about my pride, my jealousy? These are the things which we must check in daily life with the knowledge of the Buddhist teachings).

48. Chủ nghĩa cực đoan là kinh hãi vì nó dựa trên cảm xúc thuần túy, hơn là sự thông minh. Nó ngăn tín đồ không thể suy tư với tư cách là các cá nhân và không vì lợi ích của thế giới (Fundamentalism is terrifying because it is based purely on emotion, rather than intelligence. It prevents followers from thinking as individuals and about the good of the world).

49. Ngày nay, chúng ta thực sự là một gia đình toàn cầu. Những gì xảy ra trong một phần của thế giới có thể ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Điều này dĩ nhiên không chỉ đúng với sự việc tiêu cực, mà còn đúng cả với các phát triển tích cực 
(Today, we are truly a global family. What happens in one part of the world may affect us all.This, of course, is not only true of the negative things that happen, but is equally valid for the positive developments).

50. Ngày nay, chúng ta đối diện với nhiều vấn nạn. Vài vấn nạn do chính chúng ta tạo ra, do các phân biệt về ý thức hệ, tôn giáo, sắc tộc, tình trạng kinh tế, hoặc do các yếu tố khác. Vì thế, đã đến lúc chúng ta cần suy nghĩ dưới góc độ sâu sắc hơn, dưới lăng kính con người, và từ góc độ này, chúng ta nên ghi nhận và tôn trọng tính tương đồng của người khác với tư cách là nhân loại 
(Today we face many problems. Some are created essentially by ourselves based on divisions due to ideology, religion, race, economic status, or other factors. Therefore, the time has come for us to think on a deeper level, on the human level, and from that level we should appreciate and respect the sameness of others as human beings).

Thích Nhật Từ sưu tầm và dịch
 
Theo Thư Viện Hoa Sen
 

Thứ Tư, 22 tháng 5, 2013

Không có gì là rác

Written by Nguyễn Tâm 

 
“Không có gì là rác cả!” là một tuệ giác lớn. Hãy nhìn thật kỹ, thật sâu sắc vào những bất đồng, những việc không như ý và tất cả những gì được gọi là xấu xa, đáng để loại trừ, vứt bỏ… cho đến khi nào nhận ra “Không có gì là rác cả!” để ôm ấp, bao dung và tận dụng hết thảy thì cuộc sống này đẹp biết dường nào!Không có gì là rác cả” là bài học đầu tiên đại sư Zuigan Goto dạy cho người đệ tử vừa thâu nhận, sau này chính là Thiền sư Soko Morinaga nổi tiếng của xứ Phù Tang.
 
Sống sót trở về sau chiến tranh tàn khốc giữa thập niên bốn mươi, Soko Morinaga tìm về căn nhà cũ, trực diện với những khó khăn và mất mát tận cùng của đời người. Cha mẹ không còn, anh chị em phân tán, nhà cửa, tiền bạc bị tịch thu. Ông cố ngoi lên bằng ý chí trở lại học đường nhưng đành chào thua cuộc vật lộn cam go đó khi bao tử thường xuyên lên tiếng kêu khóc.
 
Giữa quạnh hiu đổ nát cả thân và tâm, một sự mầu nhiệm kỳ diệu nào đã dẫn bước chân vô định của Soko tới trước cửa chùa Daishuin ở Tokyo. Ngước nhìn mái chùa rêu phong, lưỡng lự đôi ba phút rồi Soko mạnh dạn bấm chuông. Người mở cửa chính là Đại sư Zuigan Goto. Soko ngỏ lời xin được đại sư thâu nhận làm đệ tử. Đại sư chỉ hỏi một câu duy nhất:
 
- Ngươi tin ta chứ? Nếu không tin ta thì có ở đây bao lâu cũng chẳng học được gì, phí công ta thôi.
 
Soko trả lời:
 
- Con xin hết lòng tin tưởng sư phụ.
 
Đại sư mở rộng cửa, lạnh lùng truyền:
 
- Theo ta.
 
Soko líu ríu theo vào. Tới góc sân, đại sư chỉ cây chổi tre, ra lệnh:
 
- Quét dọn vườn.
 
Trước khi cầm chổi, Soko quỳ xuống bái tạ đại sư đã thâu nhận mình
 
Công việc quét vườn thì có chi là khó. Soko hăng hái quét, quét, và quét. Không bao lâu đã gom được đống rác cao nghệu đầy đất, sỏi, đá vụn và lá khô. Dừng chổi, Soko lễ phép hỏi:
 
- Bạch thầy, con phải bỏ đống rác này đi đâu ạ?
 
Bất ngờ, đại sư quát lên:
 
- Rác? Ngươi nói gì? Không có gì là rác cả!
 
Soko ngẩn ngơ nhìn đống chiến lợi phẩm, không hiểu đây không là rác thì là gì? Còn đang lúng túng thì đại sư lại bảo:
 
- Vào nhà kho kia lấy cái bao nhựa lớn ra đây.
 
Khi Soko tìm được bao nhựa mang ra thì thấy đại sư đang dùng hai tay, gạt đám lá khô sang một bên. Ông lại bảo:
 
- Mở rộng miệng bao ra.
 
Soko tuân lời, lẳng lặng theo dõi thầy mình quơ từng ôm lá, bỏ vào bao, thỉnh thoảng lại giậm giậm cho lá xẹp xuống.
 
Cuối cùng, những lá khô trong đống rác đã được nhồi vào bao, cột lại. Soko lại nghe lệnh truyền:
 
- Đem bao lá này vào nhà kho, để dành đun nước tắm.
 
Vừa vác bao lá trên vai, Soko vừa nghĩ:
 
- Còn đống đất đá, không phải rác thì dọn đi đâu?
 
Ấy thế mà khi ở nhà kho ra, Soko thấy đại sư đang lượm những viên sỏi, đá vụn ra. Trước vẻ ngẩn ngơ của Soko, ông vừa hỏi, vừa sai:
 
- Có thấy hàng hiên ngay dưới ống máng xối kia không? Có thấy những chỗ bị nước mưa xoáy lồi lõm không? Đem những sỏi, đá vụn này ra, trám vào những chỗ đó.
 
Soko vừa làm, vừa thán phục thầy mình, vì quả thật, sau khi trám, không những chỗ lồi lõm bằng phẳng mà còn đẹp hẳn lên nữa.
 
Bây giờ, đống rác (theo Soko) chỉ còn lại đất và rêu. Lần này thì chắc chắn phải hốt, đổ đi rồi. Nhưng kinh ngạc biết bao khi Soko quay lại sân, thấy thầy mình thong thả nhặt từng miếng đất, từng tảng rêu lên tay, rồi chậm rãi nhìn quanh, tìm những khe tường nứt, những chỗ lõm nhỏ trên mặt đất, từ tốn trám vào.
 
Bây giờ thì đống rác không còn đó. Nhưng cũng không phải là vật phế thải vô dụng gom quẳng đi đâu. Mỗi loại rác, nếu biết tận dụng, sẽ lại trở thành hữu ích.(Theo Novice to Master (There is no trash), nguyên tác Soko Morinaga, Diệu Trân dịch)
 
 
 
BÀI HỌC ĐẠO LÝ:
 
Thiền sư Soko Morinaga đã bắt đầu bài học nhập môn chỉ bằng niềm tin và lời dạy thật đơn giản rằng “Không có gì là rác cả!”. Vậy mà về sau ngài trở thành thiền sư danh tiếng, Viện trưởng Đại học Hanazono, thuộc tông Lâm Tế Nhật Bản. Phải chăng, niềm tin tuyệt đối vào tương lai tươi sáng và sự tiết kiệm, chắt chiu đã vực dậy một đất nước đổ nát bởi chiến tranh nhanh chóng trở thành siêu cường, và ở một phương diện khác, những đức tính ấy đã un đúc, tạo nên một nhân cách lớn.
 
“Không có gì là rác cả!” tuy đơn giản mà bao hàm một thông điệp về triết lý duyên khởi, trong rác có hoa và trong hoa có rác, rác chính là hoa và hoa chính là rác. Nhờ thấy được sự thật này nên không hề có sự loại bỏ, đối kháng và mâu thuẫn mà hoàn toàn nhuần nhuyễn, tùy thuận, các pháp cùng nương vào nhau để tồn tại và phát triển.
 
“Không có gì là rác cả!” là một tuệ giác lớn. Hãy nhìn thật kỹ, thật sâu sắc vào những bất đồng, những việc không như ý và tất cả những gì được gọi là xấu xa, đáng để loại trừ, vứt bỏ… cho đến khi nào nhận ra “Không có gì là rác cả!” để ôm ấp, bao dung và tận dụng hết thảy thì cuộc sống này đẹp biết dường nào!
 
 
@Nguyễn Tâm (Theo Giác Ngộ Online)

Thứ Hai, 21 tháng 3, 2011

VĨNH BIỆT PHẠM CÔNG THIỆN

VĨNH BIỆT PHẠM CÔNG THIỆN


Giáo sư Phạm Công Thiện (01.06.1941 -09.03.2011)


Giáo sư: Phạm Công Thiện
Sinh ngày :01.06.1941 tại Mỹ Tho
Mất ngày:08.03.2011 tại Houston, Texas.
Theo Cáo bạch ngày 9 tháng 3, 2011 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ cũng như sự xác nhận của gia đình.
Pháp danh: Nguyên Tánh
 
Nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng, dịch giả, giáo sư, cư sĩ Phật giáo Phạm Công Thiện vừa qua đời ngày 8 tháng 3 năm 2011 tại Houston, Texas, thọ 71 tuổi, theo Cáo bạch ngày 9 tháng 3, 2011 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ cũng như sự xác nhận của gia đình.
 
Di ảnh cư sĩ Phạm Công Thiện.
 
Theo lời một thành viên gia đình nói với một thân hữu, ông Phạm Công Thiện dường như biết trước thời điểm “sẽ đi,” và trong ngày cuối cùng của cuộc đời, ông dặn gia đình “không làm tang lễ rườm rà, chỉ hỏa thiêu.”

Chiều cùng ngày, vẫn theo lời gia đình, ông thấy “mệt dần, bắt đầu nhập định, và ra đi nhẹ nhàng.”

Ông tên thật là Phạm Công Thiện, thời trẻ còn có bút hiệu Hoàng Thu Uyên cho các tác phẩm dịch, sinh ngày 1 tháng 6 năm 1941 tại Mỹ Tho trong một gia đình Thiên Chúa giáo. Từ tuổi thiếu niên ông đã nổi tiếng thần đồng về ngôn ngữ, năm 15 tuổi đã đọc thông viết thạo năm ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật, Hoa, Tây Ban Nha, ngoài ra còn biết tiếng Sancrit và tiếng La Tinh.
 
Năm 1957, 16 tuổi, ông xuất bản cuốn tự điển Anh Ngữ Tinh Âm, nhưng từ vài năm trước đó cho đến khi rời Việt Nam vào năm 1970, ông đã cộng tác với các báo Bông Lúa, Phổ Thông, Bách Khoa, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ. Từ những năm cuối thập niên 1950 ông đi dạy Anh ngữ tại một số trường tại Sài Gòn.
 
Ðầu năm 1964, ông chuyển ra Nha Trang sống để an dưỡng sau một cuộc “khủng hoảng tinh thần.” Tại đây ông quy y ở chùa Hải Ðức, lấy pháp danh Nguyên Tánh. Một thời gian sau ông lại về Sài Gòn.
 
Từ năm 1966-1968, ông là giám đốc soạn thảo tất cả chương trình giảng dạy cho tất cả phân khoa viện Ðại Học Vạn Hạnh. Từ năm 1968-1970, giữ chức trưởng khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của viện. Tại đây ông cũng là sáng lập viên và chủ trương biên tập của tạp chí Tư Tưởng.
 
Ông rời Việt Nam từ năm 1970, chuyển sang sống ở Israel, Ðức, rồi sống lâu dài tại Pháp. Tại đây ông trút áo cà sa để lấy vợ và sau đó làm giáo sư Triết học Tây phương của viện Ðại Học Toulouse.
 
Năm 1983, ông sang Hoa Kỳ, định cư ở Los Angeles, giữ chức giáo sư viện Phật Giáo College of Buddhist Studies. Từ khoảng năm 2005, ông sang cư ngụ tại Houston, tiểu bang Texas cho đến ngày ông qua đời.
 
Giữa thập niên 1960, Giáo Sư Phạm Công Thiện bắt đầu nổi tiếng với các tác phẩm xuất bản tại Sài Gòn, mà cuốn đầu tiên gây chú ý nhiều cho giới văn nghệ và thanh niên sinh viên là Ý Thức Mới Trong Văn nghệ và Triết Học (1965), rồi đến Yên Lặng Hố Thẳm (1967), Hố Thẳm Của Tư Tưởng (1967), Mặt Trời Không Bao Giờ Có Thực (1967). Về tôn giáo có “Tiểu luận về Bồ Ðề Ðạt Ma, Tổ sư Thiền Tông” (1964), thơ thì có “Ngày sinh của rắn” (1967), các tác phẩm văn học thiên về tư tưởng: “Trời tháng Tư” (1966), “Bay đi những cơn mưa phùn” (1970). Tất cả các tác phẩm này đều do hai nhà An Tiêm và Lá Bối tại Sài Gòn ấn hành.
 
Tại hải ngoại ông đã xuất bản khoảng mười tác phẩm, hầu hết trong thập niên 1990, như Ði Cho Hết Một Ðêm Hoang Vu Trên Mặt Ðất (1988), Sự Chuyển Ðộng Toàn Diện Của Tâm Thức Trong Tư Tưởng Phật Giáo (1994), Triết Lý Việt Nam Về Sự Vượt Biên (1995), Tinh Túy Trong Sáng Của Ðạo Lý Phật Giáo (1998), v.v…Ông cũng đóng góp nhiều cho báo chí, chẳng hạn viết cho tạp chí Thế Kỷ 21, nhật báo Người Việt. Có thể nói, tác phẩm cuối cùng của ông là bài viết cho Giai Phẩm Xuân Người Việt 2011.
 
Thượng Tọa Thích Viên Lý, viện chủ Chùa Ðiều Ngự, California, người từng nhiều năm cư ngụ cùng Phạm Công Thiện tại chùa Diệu Pháp, nói rằng cư sĩ Phạm Công Thiện đã “đóng góp rất lớn về mặt văn hóa đối với Việt Nam,” và luôn “mong Phật Giáo Việt Nam được xiển dương một cách đúng mức.”
 
Từ khi còn rất trẻ cho đến cuối đời, Phạm Công Thiện đã đóng góp rất nhiều cho văn hóa Việt Nam về các phương diện ngôn ngữ, thơ, văn và đặc biệt về tư tưởng triết học. Ðối với Phật Giáo ông cũng là người có công lớn với các công trình nghiên cứu Phật học, và đặc biệt, đã góp nhiều công sức xây dựng viện Ðại Học Phật Giáo Việt Nam đầu tiên Vạn Hạnh tại Sài Gòn từ năm 1966, trong đó có tập san Tư Tưởng là cơ quan phát huy tư tưởng Phật Giáo quan trọng nhất của Việt Nam trong thời cận đại.
 
Phạm Công Thiện: ‘Ðã đi mất hẳn đi rồi’
http://www.nhaccuatui.com/m/3nVop6K2hS
Viên Linh
 
Sinh hoạt văn hóa miền Nam, thu nhỏ vào lãnh vực Văn Học và Triết Học, và giới hạn từ 1963 trở đi, đã tưng bừng phát triển, như hải triều, như thác đổ, phá vỡ những oi nồng của một thời kỳ ung độc, đưa thế hệ hai mươi thuở đó và những thế hệ hai mươi khác của đất nước trở về với suối nguồn tư tưởng Ðông Phương, là công lao chung của một nhóm thanh niên trí thức đã xuất gia: Nhóm Vạn Hạnh.
 
Chưa bao giờ sinh viên học sinh miền Nam, vốn khắc khoải trước các vận động mở cửa nhìn ra thế giới, ù tai và nhức óc với những kinh điển siêu hình phương Tây, lại thấy được chân trời lồng lộng sáng lòa, hiển thế, thân ái, ai ngờ lại ở ngay ngưỡng cửa của ngôi nhà dân tộc mình. Hãy trở về Phương Ðông, hãy vực dậy Hồn Việt.
 
Hồi ấy, mạnh mẽ lên đường từ 65-66, Nhóm Trẻ Tuổi năm bảy người ấy xông xáo trong các tờ tạp chí văn hóa, nơi những nhà xuất bản tôn giáo, dưới mái các giảng đường cao đẳng, vui sống là làm việc, học và hành, tung ra bốn phương những hoa thơm cỏ lạ, những tác phẩm chan chứa tình yêu thương, yêu thương con người nhân loại, tràn đầy hy vọng và tin tưởng. Họ không phải một người. Họ là một toán, một đoàn, một đội. Thời ấy miền Nam đâu đâu cũng nói chuyện võ hiệp, như xa xưa nơi phương Bắc thời các tay tứ chiếng giang hồ tìm về Lương Sơn Bạc mưu chuyện đổi thay; họ tìm về Cao Ðẳng Phật Học và Vạn Hạnh dựng nền đắp móng. Không kể các bậc thầy đã xa như Ðức Nhuận, Thanh Kiểm, Thanh Từ,… hay kế tiếp như Minh Châu, Nguyễn Ðăng Thục, Tôn Thất Thiện, Trần Ngọc Ninh, Vũ Văn Mẫu,… Nhóm Trẻ là “Tây Ðộc” Phạm Công Thiện, “Ðông Tà” Tuệ Sỹ, Chơn Hạnh “Trung Thần Thông,” Chơn Pháp “Bắc Cái,” Nghi Lâm sư muội Trí Hải, và “Chu Bá Thông” Bùi Giáng, võ công tuyệt đỉnh nhưng không chịu hẳn một môn phái nào. Hôm qua, 8 tháng 3, 2011, Phạm Công Thiện đã ra đi.
 
Nói đến Phạm Công Thiện là nói đến tác phẩm “Ý thức mới trong văn nghệ và Triết học,” cuốn sách các sinh viên thường có trong tay, xuất bản năm 1965. Cũng phải nói đến cuốn luận văn quan trọng của Thiện, phê bình sách của Giáo Sư Nguyễn Văn Trung về Phật Giáo, và những cuốn khác như:
“Tiểu luận về Bồ Ðề Ðạt Ma, Tổ sư Thiền tông” 1964, “Im lặng hố thẳm, Phương pháp suy tư về Việt và Tính, con đường của Triết lý Việt Nam” 1967, “Hố thẳm của tư tưởng, Ðặt lại căn nguyên tư tưởng hôm nay” 1967; không kể truyện ngắn, hay những cuốn sách viết về Rilke, 1969, Miller, 1969,… Với những cuốn sách ấy, Thích Nguyên Tánh Phạm Công Thiện đã đóng góp công lao lớn trong sự xây dựng Phật Giáo Việt Nam.
 
Ðể đưa tiễn nhà thơ triết gia, không gì bằng nhắc đến một câu thơ của Goethe mà tác giả “Hố Thẳm” hay nhắc: “Trên Tất Cả Các Ðỉnh Cao, Là Bình Yên.” Mới năm kia, Phạm Công Thiện đã sửa lại hai chữ sau cùng, dùng để đặt nhan đề cho tập thơ cuối cùng của ông, do Hương Tích xuất bản: Trên Tất Cả Các Ðỉnh Cao Là Lặng Im.”
 
Ðã đi rồi đã đi chưa
Thượng phương lụa trắng đong đưa giữa trời
Ðã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch trùng khơi phong kiều
Chuyển hình trên đỉnh cô liêu
Lửa bay thành ngọn hồng điều mật ngôn
Ðại huyền biến ngưỡng triêu tôn
Tiền thân Tây Tạng nhập hồn chiêm bao
Án nga nga nẵng bạch hào
Một luồng sáng rực chiếu vào trái tim.
(Phạm Công Thiện, Ði, tr. 22, Trên tất cả…)
6 giờ 22, 9 tháng 3, 2011
Khi thi ca thành tôn giáo: Phạm Công Thiện
 
Tác giả: Nguyễn Mạnh Trinh
 
Phạm Công Thiện biographie
Ý thức mới trong văn nghệ và triết học
 
Phạm Công thiện, ông là ai? Có nhiều người đã hỏi như thế. Triết gia? Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ ? Hay là một người lang thang rong chơi trong cuộc đời? Hay là nghệ sĩ với ước vọng thành một tài năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang trong cơn mộng du suốt cả đời?
 
Vào những năm thập niên 60 ở Sài gòn, Phạm Công Thiện xuất hiện như một hiện tượng. Sách vở của ông đã được đón đọc nồng nhiệt và trong giới sinh viên học sinh đọc sách của ông là một thời thượng. Họ thích nói về “Ý thức mới trong văn nghệ & triết học”. Họ tán thưởng “Ngày sinh của rắn”. Có người thú nhận thích đọc ông dù chẳng hiểu bao nhiêu. Và trong cái gọi là “họ” ấy có tôi. Một cậu sinh viên mê sách vở và tràn ứ mơ mộng lãng mạn.
 
Lúc đó, tôi đã nghĩ Phạm Công Thiện là một người viết phê bình như viết tùy bút và viết tùy bút như viết bằng thơ. Tóm lại, với tôi, ông là một thi sĩ dù ông làm thơ không nhiều lắm.
 
Đọc lại những bài viết về những nhà thơ của ông, tôi thấy điều đó tới bây giờ vẫn còn chính xác. Ông viết về thơ với cả tâm hồn mình, và với những thi sĩ, ông cũng đồng cảm trong cái chia sẻ không cùng của những sợi đàn rung cộng hưởng vì chung tần số.
 
Tôi đọc thử một đoạn viết về Cung Trầm Tưởng để dẫn tới thơ tình yêu của Appollinaire. Những trang sách cũ đã ố vàng của “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học”.
 
“… Tôi ngạc nhiên. Tim tôi máy động. Cung Trầm Tưởng là ai mà làm thơ tài hoa vậy. Tôi mơ màng. Tôi hình dung những chiếc lá rơi. Tôi nhìn thấy dòng sông Seine lững lờ trôi chảy. Kia là tả ngạn River Gauche… Kia là đường phố Aumont – Thieville và L’ Avenue des Ternes… Kia là những quán cà phê và những kẻ tứ chiếng giang hồ… Kia là cầu Mirabeau… Kia là mùa thu mưa rơi… kia là Pont Neuf. Ôi. Paris. Souvenir. Souvenir. Remember to remember…
 
Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire. Ừ, chỉ có Appollinaire mới có những dòng thơ bất tuyệt để làm sống lại Paris. Nói đến Paris là nói đến Kỷ Niệm, là nói đến Nghệ sĩ, là nói đến tình yêu và tuổi trẻ. Paris là thành phố của những kẻ tứ chiếng giang hồ, của những clochards, của những femmes de joie, của những Henry Miller, những Hemingway, những Gertrude Stein, những Picasso, những Appollinaire…
 
Mùa thu nơi đâu
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín dỏ trái sầu.
 
Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire:
 
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps Brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
 
Cũng vào mùa thu, Cung Trầm Tưởng ngóng chờ người yêu ”kiên khổ phút giờ” và “chín đỏ trái sầu” ngóng chờ mong đợi như Appollinaire đã ngóng chờ mong đợi giữa hương thời gian và mùi lá cỏ
 
Odeur du temps Brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
 
Trời đã tối hẳn rồi. Tôi bước vào giường nằm ngủ, mắt nhắm lại, những dòng thơ của Hàn, của Cung, của Appollinaire chan hòa thướt tha đưa tôi vào giấc ngủ triền miên…
 
Viết về thơ, theo như Phạm Công Thiện không phải là phê bình xếp loại mà phải là ca tụng khen ngợi thơ. Ông khẳng định ”Nói đến Thơ không khác gì nói đến Thượng Đế. Phê bình Thơ là làm việc phạm thánh là blasphème.
 
Những thi sĩ không phải là loài người họ là những Thiên Thần, những thánh hoặc những quỉ ma. Nếu ta không chấp nhận họ được thì ta phải im lặng; còn nếu chấp nhận họ thì ta phải ca tụng cho hết lời. Ta không được quyền có thái độ của học giả hoặc giáo sư hoặc nhà phê bình. Phải giết hết những nhà phê bình để cho Keats sống, để cho Chatterton đừng chết lúc mới 18 tuổi xanh.
 
Anh không thể cảm thơ của người ta thì anh hãy im lặng; còn nếu cảm được thì anh hãy thiết tha ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những nhà phê bình thơ mà chỉ nên có những kẻ ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người; không có ai làm thầy ai cả. Phê bình văn nghệ ư? Buồn lắm…”
 
Thi sĩ ca tụng thi sĩ? Đúng quá rồi. Và trong cái bí nhiệm như của một tôn giáo, thi ca đã làm cho chúng ta luôn luôn mơ mộng và suy tư.
 
Như khi nhìn những con sông cạn cợt của quận Cam…
 
Không hiểu sao mỗi lần lái xe đi ngang qua những con sông cạn ở thành phố Westminster hay Santa Ana tôi lại thấy bồi hồi. Có một liên tưởng nào từ lòng sông tráng xi măng ở giữa chơ vơ một dòng nước chảy nhỏ nhoi cạn cợt. Cái cảm giác của thiên nhiên bị khuất phục ấy của một dòng nước mùa nắng nhắc tôi tới nguồn nước ào ào sục sôi sau những cơn mưa. Một thi sĩ đã viết :
 
“Ừ, ta bây giờ như sông cạn
Nước vũng làm sao thành biển khơi
Chí lớn dưng không thành chuyện vãn
Mỉm cười còn mất chuyện muôn đời…”
 
Có hay không, cái tượng hình của Dịch Kinh, hà trung vô thủy? Sông mà không có nước, có phải là sông không? Hay chỉ là gợi ý tới những đi mà không đến. Một câu thơ của Seamus Heaney, thi sĩ giải Nobel văn chương năm 1995 trong thi tập The Haw Lantern, chỉ có hai câu :
 
“The riverbed, dried up, half full of leaves.
Us, listening to a river in the trees.
(Lòng sông, cạn khô, một nửa phủ đầy những chiếc lá
Cho chúng ta, đang lắng nghe một dòng sông chảy trong cây)
 
Thi sĩ Phạm Công Thiện đã viết như sau về hình ảnh sông cạn rất thơ mộng này mà chúng ta nhiều khi ít quan tâm khi ngang qua trong nhịp đời hối hả mỗi ngày :
 
“… Tiếng nói của thơ là dòng nước tuôn chảy bất tận, dù lòng sông có cạn khô chăng nữa thì hồn sông vẫn chảy mãi trên cao… Sông đang chảy trên cây và trong cây lá, và sự lắng nghe ở đây đã nhập lưu (sơ ư văn trung / nhập lưu vong sở), không phải chúng ta lắng nghe dòng sông mà chính dòng sông đã chảy vào trong thi nhân, lòng sông khô cạn ở dưới đã nhập vào con sông chảy trên cây; lòng sông khô cạn nửa đầy những chiếc lá thả hồn rào rạt với sông lá trên cao (Hồ Dzếnh: ”có một nghìn cây rũ rượi buồn / Một nghìn sông rét vạn hoàng hôn. Vũ hoàng Chương “Đáy sông bừng dựng Lầu Thơ? Giấc mơ Hồ Điệp chẳng mơ cũng thành”… Tại sao phải làm thơ? Tại sao phải lắng nghe một lần như chưa từng biết nghe trọn đời? Tại sao phải nhìn thấy được một lần duy nhất như chưa từng biết thấy bao giờ? Thi nhân đã một lần nhìn thấy; còn chúng ta thì hãy lắng nghe một dòng sông chảy bất tận trong rặng cây rào rạt chiều hôm nay… “
 
Phạm công Thiện khi viết về kỷ niệm với nhà văn Võ Hồng, trong tập thơ Ngày Sinh Của Rắn có hai câu thơ, tả cảnh mà tả tình, đẹp một cách đơn giản như phong vị của những câu Hai-Ku:
 
“Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông”
 
Và, hình như từ hai câu thơ này, Võ Hồng đã viết truyện ngắn ”Hoa khế lưng đồi” như một cách thế đáp tạ người tri kỷ.
 
Trong một lá thư gửi cho tác giả “Hoài Cố Nhân”, thiền sư thi sĩ họ Phạm viết:
 
…”Anh V.H. ạ, anh có cần gì phải thuyết giảng philo? Tất cả những trang văn anh, những trang văn rất từ tốn khiêm nhượng kia đều tiềm tàng những tư tưởng triết học rất sống. Nó cao hơn philo nữa, bởi nó là sagesse của quả tim.
 
Và một Triệu trang giấy Triết Học cũng không đáng giá bằng một tiếng đập của con tim. Anh có nghe rõ chưa? Tôi muốn hét to lên như vậy.
 
Anh có nghe tim con người đập trong những trang “Xuất hành năm mới”, trong “Trận đòn hòa giải”? “Xuất hành năm mới” còn cảm động muôn vạn lần hơn những chuyện mà người ta cho rằng buồn nhất! Những đứa nhỏ Hằng, Hào, và Thủy trong “Xuất hành năm mới” và “Trận đòn hòa giải” là những hình ảnh đau thương nhất trên đời, là những hình ảnh tượng trưng cho tất cả những đứa trẻ ở trần gian này…”.
 
Phạm Công Thiện tâm sự như thế, dù trong ngôn ngữ của ông có một chút gì hơi phấn khích nhưng cũng khá thành thật.
 
Phạm Công Thiện là một khuôn dáng văn chương rất có ảnh hưởng với những lớp sinh viên học sinh ở miền Nam của thập niên 70, 80. Thời gian ấy, những cuốn sách như “Ý Thức Mới trong Văn Nghệ và Triết Học”, “Hố Thẳm của Tư Tưởng“, “Ngày Sanh của Rắn “,… là những cuốn sách cầm tay của giới trẻ. Từ tác phẩm của ông, mở ra nhiều những cánh cửa. Trước hết, ông là một người sáng tạo nhiều suy tư về cái Mới, về những ngã đường có thể khá lạ lùng đến khi kỳ dị nhưng hấp dẫn. Văn học sẽ phải có những thay đổi, nhất là trong hoàn cảnh một đất nước chiến tranh như Việt nam. Ngay cả khi làm thơ, thi sĩ như người của hành tinh lạ lạc đến, với ngôn từ khá lạ lùng như đoạn VI của tập
 
“Ngày Sanh của Rắn”
“tôi chấp chới
đắng giọng
giữa tháng ngày mơ mộng
nốt ruồi của hương
hay nốt ruồi của rigvéda
tôi mửa máu đen
trên nửa đêm Paris
tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng
tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người
cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ
mặt trời có thai!
Mặt trời có thai!
Sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt “
 
Nếu bảo giải thích từng câu từng chữ thì có lẽ chính cả tác giả cũng lúng túng. Thơ là những hình ảnh rải rác, thoạt tưởng không liên quan với nhau nhưng trong trình tự cảm nhận lại có một ý nghĩa nào len vào bất chợt những liên tưởng. Có người cho rằng những từ ngữ như thủ dâm thương đế, giao cấu mặt trời, mặt trời có thai,,, tạo ra cảm giác tức thì với hình tượng có hơi dung tục ấy. Đó là một cảm nhận. Nhưng, ngay ở thời điểm bây giờ, đọc lại câu thơ, chúng ta vẫn có thể bắt gặp được nét khai phá một cách rõ ràng. Thơ là một cái gì, khác thường lắm, có lúc rất gần cận cuộc sống mà có lúc lại xa nghìn trùng…
 
Tôi nhớ có lần nhà thơ Phạm Công Thiện nói chuyện với tôi về kinh nghiệm đọc thơ của ông. Lúc ấy, đêm đã khuya và ông có ngôn ngữ của một Lưu Linh đang trong cơn đồng thiếp. Ông đọc thơ Pháp, thơ Anh, thơ La tinh, thơ Việt Nam tiền chiến và hiện đại. Đọc xong rồi bình, hình như văn chương đã lôi ông vào một cơn mộng.
 
Nói về kinh nghiệm để có thể tiếp cận với thơ, ông đọc một bài thơ thật nhiều lần và sau mỗi lần đọc như thế đều tìm ra những cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy bắt nguồn từ giây phút rất thiêng liêng để con người bắt gặp được những sáng ngời lộng lẫy. Sự kiện ấy James Joyce đã gọi là “a sudden spiritual manifestation” (biểu hiện tâm linh bất ngờ) hay “epiphany” (sự linh hiện). Tương tự, như Xuân Diệu : “phất phơ hồn của bông hường / trong hơi phiêu bạc còn vương máu hồng / nghe chừng gió thoáng qua song… “ đó, chính là hồn của thơ, của những giây phút linh hiện mà chỉ có những người tài tử cảm nhận được.
 
Ở Phạm công Thiện, cái chất thơ đã thành nét đặc thù tinh tế cho văn chương ông. Viết khảo luận, ông mang cái kiến thức rộng lớn tích tụ từ sách vở cùng với hồn thơ để thành những bước đi lãng mạn vượt qua những khô khan câu thúc. Là một triết gia, cái nhận thức để thành những trang giấy cũng có chút thi ca bồng bềnh vào để thành một triết gia thi sĩ. Cái chất lãng tử trong văn chương là một nét thấy rõ. Phạm Công Thiện viết :
 
“… tất cả đời sống văn xuôi tẻ nhạt, những công thức, những danh vọng, những khuôn mòn lối cũ, những địa vị xã hội, những mẫu mực khuôn xếp đã thụt lùi ra đằng sau, chỉ còn lại nước chảy của dòng sông và mây chiều của đại dương: mây ở trên cao trôi dưới dòng nước rong rêu của khe biển nhỏ. Thi nhân từ bỏ tất cả lại đằng sau lưng và bước tới trước băng qua cây cầu gỗ mong manh…”
 
Viết về thơ Seamus Heaney, nhưng trong dòng chữ có cảm khái riêng của một người mà thi ca đã thành máu xương da thịt cho đời sống. Viết những cuốn sách triết học giữa hồn thơ lai láng, cũng giống như viết những trang tùy bút mà chữ nghĩa đã thành những trân trọng nâng niu nhất. Cầm cây bút trong trạng thái tuy phong trần từng trải nhưng vẫn còn sót nét ngây thơ của một người tin tưởng vào những điều nghĩ rằng cần phải tìm kiếm được bằng suy tưởng. Với đời thường, ông sống như lạc lõng bất kể. Nhưng với văn chương, ông là người tinh tế và có can đảm rủ bỏ tất cả để đi lại những bước khởi đầu.
 
Nhà thơ Nguyên Sa đã có bài thơ vẽ lại chân dung của một nhà thơ tiêu biểu cho một phong cách sống đặc biệt của một người cũng đặc biệt trong một thời kỳ văn học mà sự khao khát những phương trời mới những vóc dáng mới đã thành động lực mạnh mẽ cho sáng tạo. Bài thơ “Nói chuyện phải quấy với Phạm Công Thiện:
 
“Người vào tịnh thất sống ba năm
cất tiếng không lời để nói năng
buổi sáng thinh không chiều tới chậm
tiền kiếp chen vô cạnh chỗ nằm
Ta muốn cùng người một tối nay
Đầu sông uống rượu cuối sông say
Người từ trên núi ta từ biển
Từ giấc mơ nào đã tới đây
Dưới bóng tường im, giữa nhạc không
Đời như phía trước bỗng mông lung
Thơ như hữu thể mà vô thể
Có cũng xong mà không cũng xong
Sáng dậy ta nhìn tục lụy ta
Những đi không tới đến không ngờ
Xóa luôn thì dứt nhưng tâm thức
Kinh Pháp Hoa nào dậy cách xa?
Trong chín ngàn âm có hải triều
Còn thêm một kiếp nữa phiêu lưu
Này người bỏ sóng sang thuyền tĩnh
Nhớ đứng chờ ta ở cõi siêu…”
 
Nhưng không phải tất cả thơ ông chỉ chuyên chở ý tưởng. Mà, còn chuyên chở cảm giác nữa. Thơ để mang tới những giây phút linh hiện, để người đọc thơ và làm thơ một giây phút tình cờ nào đó gặp nhau trong giao thoa cảm xúc. Có một bài thơ trong tập thơ mỏng về số trang nhưng dầy về ý tưởng, Ngày sanh của rắn, VIII, có những hình ảnh nối liền nhau để thành một chuỗi sinh động liên tưởng luôn biến dịch. Gió, như một cuộc hành trình đi qua đồi tây, đồi đông, đi qua những chặng thời gian tưởng ngắn như một sát na nhưng dài vô tận. Thế mà, trong cái lãng đãng tâm thức ấy, ngôn ngữ nhẹ nhàng như một hồi tưởng để níu kéo cảm nhận của người đọc trong một cảnh giới mơ hồ :
 
“Mười năm qua gió thổi đồi tây
tôi long đong theo bóng chim gầy
một sớm em về ru giấc ngủ
bông trời bay trắng cả rừng cây
Gió thổi đồi tây hay đồi đông
Hiu hắt quê hương bến cỏ bồng
Trong mơ em vẫn còn bên cửa
Tôi đứng trên đồi mây trổ bông
Gió thổi đồi thu qua đồi thông
Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
Một sớm bông hồng nở cửa đông”
 
Với suy nghĩ của tôi, Phạm công Thiện là một thi sĩ nghệ sĩ. Klhông phải là cung cách một phù thủy chữ nghĩa hoa tay bùa chú vào hư vô để thành một văn phong khúc mắc khó hiểu. Mà, là một người ôm tất cả những rộng khắp vào lòng và đi vòng quanh để tìm chân lý. Cái tâm thức vốn tịch lặng của một người thâm cứu Phật Giáo pha trộn vào ý thức muốn nổi loạn phá bỏ cung cách cũ khiến văn chương trở thành một hành trình của một người luôn xông tới đằng trước và không dừng lại. Trong đời sống, phong cách du tử, làm những điều mình thích khiến ông thành một người luôn thấy đêm ngày là hoang vu…
 
Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “Tác Giả Tác Phẩm“, xuất bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người thi sĩ rất mực nghệ sĩ này:
 
“Sinh ngày 1-6-1941 tại Mỹ Tho. Trong gia đình, Thiện là người anh cả “Người anh không giúp ích gì được cho gia đình, nhìn thấy mọi người cha mẹ em út đang lâm vào cảnh sa sút túng bấn. Mà mình thì lận đận lao đao chẳng giúp ích được gì.”
 
Đó cũng là một lý do, khiến có lúc Thiện bỏ đi tu ngoài Nha Trang. Thiện đã có lần cùng chúng tôi đem bán từng va ly “Anh Ngữ Tinh Âm” của anh soạn để lấy tiền ăn bánh mì trong những lúc đói rách nhất. Mặc dầu lúc đó báo Phổ thông và Dân ta của Nguyễn Vỹ bán chạy, lương của Thiện trên mười lăm ngàn (bằng khoảng 150 ngàn đồng bây giờ mỗi tháng) tiền lãnh ra, Thiện đem uống rượu say rồi gọi tất cả đám trẻ nít đánh giày, các bọn bán báo nghèo đói lại phân phát tất cả cho chúng trong một khắc đã hết sạch. Qua ngày hôm sau, kiếm lại vài chục uống cà phê là sự thường…”
 
Có người cho ông là thần đồng, soạn “Anh Ngữ Tinh Âm“ lúc 16 tuổi. Có người cho ông là một triết gia, tư tưởng gia luôn luôn vật vã với suy tư. Có người cho ông có hiểu biết rộng, thông hiểu nhiều ngoại ngữ. Có người cho ông là một người đọc sách chuyên cần với óc thông minh và nhớ lâu không quên. Cũng như có người gọi ông là lãng tử, là một người thích gì làm nấy và luôn miệt mài trên con đường độc hành tìm kiếm những điều bất khả trong cuiộc sống…

Với tôi, ông là một thi sĩ và là người viết về thi ca mà tôi yêu thích. Dù, ông “đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất” để tìm “ý thức mới trong văn nghệ và triết học“ qua “hố thẳm của tư tưởng“ để “im lặng hố thẳm“ và, cứ thế hành trình…
 
Nguyễn Mạnh Trinh

Phù Sa Online



Ban Thời Sự Phật Pháp, Thành kính nhất tâm cầu nguyện Chơn Linh Cư sĩ Phạm Công Thiện Cao Đăng Lạc Quốc.
0.000000 0.000000


About Kinh Tâm

Từng bước hoa sen nở



This entry was posted in Giáo dục and tagged . Bookmark the permalink.


Be the first to like this post.

4 Responses to Giáo sư Phạm Công Thiện (01.06.1941 -09.03.2011)

Nguyễn Hữu Viện says:


  1.  Vĩnh biệt Phạm Công Thiện !
    ==================
    Mặt Trời chỉ là ảo ảnh thôi
    “Trên Tất cả các Ðỉnh cao chỉ là Yên lặng và Bình yên ”
    Goethe
    Hố thẳm Tư tưởng lặng yên rồi !
    Trời tháng Tư về miền Miên viễn
    Bay đi mưa phùn về xa xôi .. ..
    Ðêm Hoang vu đã đi vừa hết
    Tâm thức Vượt biên lạnh Kiếp người
    Trở về phương Ðông vực vậy Hồn Việt
    Trên Tàng Kinh Các – Vạn Hạnh ơi ! .. ..
    Nguyễn Hữu Viện
    Trân trọng mời bạn đọc nghe các TÌNH KHÚC của Nhạc sĩ ê Khắc Thanh Hòai người vợ cũ của cố GS Phạm Công Thiện
    qua giọng ca cố Ca sĩ LÊ DUNG có liên quan đến cố GS Phạm Công Thiện :
    http://www.lekhacthanhhoai.com/vietnamese/nghemp3.html
    Xin trọn đời còn yêu Anh
    Mắt là thuyền đưa
    Thôi xin giã từ
    Muốn biết thêm các con của Phạm Công Thiện thành công trên Đất Pháp :
    http://www.lopham.com/francais/3frereset1soeur.html
    http://www.lopham.com/francais/bioperso.html
    Trả lời

phamthientho says:

VĨNH BIỆT PHẠM CÔNG THIỆN
HÀNH TRÌNH CỦA BỒ ĐỀ ĐẠT MA ĐI VÀO CÕI THIÊN THU
* * * * * * * * * * * * *
“Thời gian thì chỉ vẫn là một giây phút, dù hai chục năm hay năm chục năm hay cả mấy tỷ năm trôi đi trên tinh cầu…“ (Trích trong lá thư ngày 27.7.1983 gởi cho người bạn trẻ tha huơng của Phạm Công Thiện).

71 năm Phạm Công Thiện đã bước lang thang trên mặt đất, nhưng đó cũng chỉ là một giây phút thôi, Thiện đã nhìn cuộc đời như một sát-na theo tư tưởng Phật giáo.

Đối với Thiện có lẽ tất cả đều vô nghĩa nếu như cõi đời còn chìm đắm trong cơn mộng vì thế Thiện đã lang thang đi tìm Tình yêu trong Nỗi chết, nói như Krishnamurti “Tình yêu là ngọn lửa không khói’’. 71 năm lang thang Thiện đã cay mắt, ngột ngạt, khó thở vì khói bụi trần gian nên Thiện luôn khao khác đi theo hành tung của Bồ Đề Đạt Ma, muốn thiên thu ngồi diện bích, đi giữa lằn ranh tử sinh, núi cao và hố thẳm để có những giây phút “đón nhận mây trời linh hiện (Dharmamegha; pháp vân), mảnh đất (Bhumi) cuối cùng của con người vừa sực tỉnh mộng (Bodhisattva).’’

Hôm nay Thiện vĩnh viễn đi trong „Lặng Im“, giờ phút phục sinh của ngọn lửa không khói, trả lại cho thời gian những khoảnh khắc linh hiện đầu tiên và cuối cùng, đi về trong vô thủy vô chung.

Trả lời
 
Kinh Tâm says:


Phạm Công Thiện qua cái nhìn của tôi.

Tôi biết tin GS Phạm Công Thiện mất qua trang web viet-studies của GS Trần Hữu Dũng post ngày 10-3. Dòng thông tin được dẫn từ báo Người Việt ở Houston, bang Tesas cho biết theo gia đình và Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất ở Mỹ xác nhận ông mất ngày 9-3-2011, thọ 71 tuổi. Trước khi mất dường như ông đã biết trước cuộc vĩnh ly này nên nhập định rồi ra đi nhẹ nhàng. Ngoài dòng báo tin của báo Người Việt còn bài viết cho người đã mất của nhà văn Viên Linh với tư cách bạn bè.
Chỉ bấy nhiêu thôi. Không nhiều hơn. Báo chí trong nước cũng im ắng, ngoài một vài trang mạng.
Tối 9-3, ngày ông mất, tôi không hay biết, ngồi đọc tình cờ bài viết về ông của Nguyễn Hưng Quốc trên chungta.com. Có lẽ đây là trang web trong nước duy nhất lưu giữ các bài viết về Phạm Công Thiện. Qua lời viết của ông Quốc, tôi cảm nhận thêm những chân trời khác của Phạm Công Thiện mà trước đây tôi chưa hề biết hay chỉ đứng mon men bên lề bỡ ngỡ không dám bước vào.

Một số tác phẩm tiêu biểu của GS Phạm Công Thiện

Phạm Công Thiện có tầm ảnh hưởng trên thế hệ sinh viên, học sinh miền Nam những năm 60, 70 của thế kỷ trước. Nhiều tác phẩm của ông được giới trẻ lúc đó đón nhận nồng nhiệt, trong đó nổi lên là cuốn “Ý thức mới trong văn nghệ và triết học”. Trong bối cảnh chiến tranh tan tốc, mất mát, chia ly, tuyệt vọng thì những tác phẩm của Phạm Công Thiện viết về văn nghệ, triết học, tôn giáo tạo cho giới trẻ một thế giới kích thích sự phiêu lưu, khám phá để rồi tung hô, đạp đổ, rồi quay lưng, câm lặng. Vượt lên các hiện tượng này, có lẽ lớp trẻ tìm thấy ở đó sự tin cậy hơn là chiến tranh, tìm thấy sự bình yên hơn là bom rơi đạn nổ. Ông kêu gọi sự trở về, tìm lấy những giá trị Việt trong văn chương, trong tư tưởng, trong truyền thống. Ông còn có công mở lối cho Phật giáo nhập thế, gần gũi hơn với đời, với giới trẻ.

Tôi nhớ hồi đó có những cô nữ sinh ban C, những cậu sinh viên ban triết áp trước ngực cuốn sách trên đi trên đường như một cách trang điểm, như một cách tự giới thiệu về mình. Ít ra rằng là ta không lạc hậu với thời đại. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng hầu hết chúng tôi chỉ hiểu rất ít những gì ông viết. Bởi vì hình như ông viết theo mạch cảm xúc tuôn trào. Chuyện nọ xọ chuyện kia, đọc rất mệt. Đôi khi có cả một đoạn tiếng Đức mà ông khoái, còn chúng tôi mù tịt.

Nhưng đó là phong cách của Phạm Công Thiện. Ông Nguyễn Hưng Quốc nói đọc Phạm Công Thiện trên tinh thần thi sĩ. Có những chỗ chỉ cảm mà không giải thích, lý giải được.

Bây giờ ông đã đi xa. Tôi nghĩ ông xứng đáng để được mọi người tưởng nhớ. Dù có thể với ông là thừa.

12-3-2011
Từ Nguyên Thạch

Bi chú:
Trong bài tựa cho lần tái bản quyển sách nổi tiếng “ Ý thức mới trong văn nghệ và Triết học “ do nhà xuất bản An Tiêm ấn hành năm 1970, ông viết :

“Bây giờ gần 30 tuổi thì tôi lại xuống núi (chứ không phải lên núi như Zarathustra) để làm nước chảy ồn ào trong những lỗ cống của cuộc đời.
Thực ra còn đến hai tháng nữa, tôi mới đúng 29 tuổi. Tôi cho phép tôi làm nước chảy trong cống rãnh trong thời gian một năm nữa thôi, từ 29 tuổi đến 30 tuổi.
Từ 30 tuổi trở đi cho đến 40 tuổi thì tôi sẽ không là tôi nữa. Đó là điều bí mật chỉ có tôi mới biết rõ vì sao tôi sẽ không là tôi nữa.
Từ 40 tuổi cho đến 50 tuổi, hư vô sẽ thổi trên mặt đất.
Từ 50 tuổi cho đến 60 tuổi thì kỷ nguyên Tây lịch đã tới năm 2000.
Từ 60 tuổi cho đến 70 tuổi thì trái đất sẽ rất nhiều chim, những con chim biết nói tiếng Phạn.
Từ 70 tuổi cho đến 80 tuổi thì núi Hy mã lạp sơn sẽ sụp đổ và chảy tan thành một đại dương mới.
Từ 80 tuổi cho đến 90 thì Thái Bình Dương sẽ trở thành nấm mồ chôn hết lục địa.
Từ 90 tuổi cho đến 100 thì mặt trời trở thành mặt trăng và mặt trăng trở thành địa cầu mới. “

Chẳng may, ông đã mất năm 71 tuổi. Ông không kịp chờ cho “núi Hy mã lạp sơn sẽ sụp đổ và chảy tan thành một đại dương mới. “ (T. Vấn)

Trả lời



Cám ơn các tác giả viết về Triết gia Phạm Công Thiện, một con người hiếm quý của Dân tộc và Phật giáo Việt Nam.
Kính
Thích Giác Tâm
http://chuabuuminh.vn