Hiển thị các bài đăng có nhãn Võ Thuật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Võ Thuật. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2014

Hoa và Hiệp sĩ


George Ohsawa.

 
Ngày xưa ở Nhật Bản, các hiệp sĩ (Samurai) trẻ tuổi đều biết nghệ thuật cắm hoa, vì đây là một môn học trong chương trình huấn luyện của họ. Cùng với tài cắm hoa, họ trồng cây thu nhỏ (Bonsai) nổi tiếng đáng giá cả gia tài.
 

 
Chuyện kể về hoa rất nhiều, chuyện nào cũng hấp dẫn người nghe, chẳng hạn như câu chuyện sau đây. Trong một đêm đông tuyết giá, một võ sĩ nghèo cứu một nhà sư gần chết cóng. Để có củi nhen sưởi ấm cho ông, chàng đã chặt các cây cảnh quý – gia tài và tình yêu duy nhất của mình. Đâu ngờ nhà sư chính là Đại hoàng thân Tokiyori tốt bụng, và thế là chàng võ sĩ giàu lòng nhân ái được tưởng thưởng xứng đáng. Đó là đề tài một vở kịch nổi tiếng có từ thời Tokugawa, đến nay vẫn được trình diễn, và mỗi lần trình diễn, sự hy sinh cao cả, sự hy sinh cao cả của người võ sĩ cùng số phận hẩm hiu của những cây cảnh đẹp vẫn còn làm khán giả mủi lòng rơi lệ.
 
Người Trung Quốc xưa dùng hai động từ diễn tả khả năng nhìn thấy: “thị” là thấy bằng mắt, và “ngộ” là thấy bằng tâm hồn. Vậy đôi khi cũng nên nhắm cặp mắt xác thịt và mở con mắt tinh thần để thưởng thức một cụm hoa Nhật Bản. Các đóa hoa tượng trưng một thời tươi đẹp, và với vẻ yên lặng dịu mềm, hoa đưa ta ra ngoài biên giới của thời gian. Những đường nét uyển chuyển của hoa không chỉ đẹp mắt, mà còn chứa đựng bí ẩn của tạo hóa, bí ẩn này chỉ phơi bày với những ai biết trân trọng ngắm nhìn.
 
Đám trẻ con Nhật bản lớn lên giữa những bông hoa. Chúng thấy mẹ cha kính cẩn mang hoa cắm vào lọ quý đặt trên bàn thờ. Dù trong những nhà nghèo nhất, chúng cũng thấy hoa trên bàn thờ tổ tiên ngày tết. Không buộc phải có hoa lạ, hoa quý, hồn thiêng tiên tổ mới hài lòng. Hoa đồng mộc mạc cũng đủ lắm rồi, và còn lý tưởng nữa là khác, vì hoa đồng gợi nhớ hương vị của thiên nhiên. Những bậc thầy của nghệ thuật hoa cảnh và những nghệ nhân chân chính không bao giờ khinh bỉ các loại hoa dại. Họ thường đưa học trò ra đồng, đến ven rừng hay bờ ao, và sau khi ra đề mục sáng tác, họ để từng đệ tử diễn tả cảm xúc của mình trước những bông hoa dại. Người ta xem tất cả các loài hoa đều thiêng liêng, tuy ở nhiều mức độ khác nhau, đầu đàn là hoa Cúc, loài hoa dành cho nhà vua, thường dân không được phép vẽ thêu trên y phục của mình. Phụ nữ Nhật Bản bắt đầu được dạy nghệ thuật cắm hoa từ năm 12 tuổi. Nếu người mẹ có thì giờ rảnh rỗi thì chính bà truyền dạy cho con, bằng không, cô gái được gởi đến học với một bậc thầy. Đức tính khiêm tốn, yên lặng, dịu dàng của hoa được nêu cao để các cô gái noi theo.
 
          
 
Thực ra, hoa có đủ tính nết như con người. Nghe thế, chắc hẳn những người có đầu óc thực dụng, quen nhìn những hình thể rắn chắc ở phương Tây sẽ phì cười, nhưng đừng quên rằng tuy đã phủ bên ngoài một lớp sơn hiện đại, người Nhật vẫn giữ được tâm trạng mộc mạc hồn nhiên không khác mấy với tổ tiên họ ngày trước. Cũng như người nguyên thủy, họ gán cho mỗi sự vật một linh hồn, linh hồn nghiêm khắc, tàn nhẫn cho một số sự vật, và linh hồn quảng đại, bao dung cho những sự vật khác nhau như hoa chẳng hạn.
 
Trong thiên nhiên, tất cả đều đẹp, đều tốt lành hoàn hảo. Chỉ tại những tật xấu đáng ghét, những dục vọng thấp hèn của con người làm tất cả hư hỏng, suy đồi, còn thiên nhiên vẫn là nguồn thanh khiết, mà hoa là những gì được thiên nhiên chắt chiu bảo dưỡng thì làm sao không thể yêu hoa?
 
Phải yêu hoa nếu muốn tỏ lòng biết ơn trời đất, và có yêu hoa, ta mới thấy mình hòa hợp với thế gian. Không nên dùng hoa với những chủ tâm phàm tục. Không nên trình bày những bó hoa, bình hoa và những chậu cây cảnh thu nhỏ như những mô hình thực vật mất tính hiện thực và quân bình, không còn là biểu tượng của nghệ thuật và chỉ phục vụ cho tính cách phù phiếm của con người. Hoa dùng để biểu dương vinh quang của tạo hóa, chứ không phải để phô trương thanh thế của phàm nhân. Chơi hoa không những là một nghệ thuật, mà còn là một triết lý đạo đức bày tỏ nhân sinh.
 
Những tài liệu cổ xưa về nghệ thuật hoa cảnh còn giữ đến ngày nay khá nhiều. Sách xưa nhất là quyển Tuyên Truyền Thư (Sendensho) viết cách đây hơn 6 thế kỷ, có nêu khoảng 50 quy tắc giúp hiểu sơ bộ ngôn ngữ tượng trưng của các loài hoa. Trong sách có chỉ rõ những loài hoa nào thích hợp với các chiến sĩ trước khi ra trận, không nên có cành lá nào rũ xuống vì gợi sự yếu đuối, mà phải mang dáng hình cứng cáp, mạnh mẽ, đầy nhựa sống như loài Tùng, lúc nào cũng xanh, chứ đừng dùng cây Phong lan hay hoa Trà ẻo lả hoặc các loài hoa chóng tàn.
 

 
Một trái táo rơi đã tạo cho Newton cơ hội tìm ra các nguyên lý về hấp dẫn lực. Nhưng đối với người Nhật, chỉ cần một chiếc lá rơi giữa những sắc màu diễm lệ của mùa thu cũng đủ cho họ thấy sự hư ảo của mọi vật, sự chóng qua của tất cả những gì mà một kẻ điên rồ mới muốn giữ mãi, cũng như sự chán chường do vật chất hữu hình gây ra. Dù trải qua bao thế kỷ, người không được thừa hưởng lòng quý chuộng những gì hư linh, vô hình vô thể, thì một sự kiện nhỏ nhoi đó cũng gợi sáng trong tâm. Chỉ có người điếc tâm hồn mới không nghe được tiếng nói của hoa lá cỏ cây. Hoa có tiếng nói của hoa, cũng như tất cả những cảnh vật thiên nhiên đều có tiếng nói. Người Nhật biết nghe lời nói của hoa lá, cỏ cây, côn trùng và chim chóc.

 
Lạc Sinh
(Trích dịch từ Le Livre dec Fleurs,
nhà xuất bản Plon, Paris 1974).

 

Thứ Hai, 27 tháng 10, 2014

AiKido và Triệt Quyền Đạo

 
Trước đây nhiều người thắc mắc đặt câu hỏi  với tôi rằng : “Sao bạn đã nghiên cứu và tập Triệt Quyền Đạo mà lại còn tập và đi dạy được AiKiDo ?”. Nhiều bạn chưa hiểu được vấn đề này cũng là điều dễ hiểu. Vì nếu chỉ nhìn theo khía cạnh của triết lý môn võ, phương pháp luyện tập cũng như nguyên lý vận hành của hai môn võ này thì ta thấy sự khác biệt và hoàn toàn trái ngược nhau. Triệt Quyền Đạo lấy tấn công làm yếu lĩnh, trong Aikido thì hoàn toàn không bao giờ tấn công đối thủ trước mà chỉ phòng thủ và hóa giải đối thủ. Triệt Quyền đạo chủ trương di chuyển và tấn công đối thủ theo đường thẳng, còn Aikido chủ trương phòng thủ và hóa giải đối thủ theo nguyên tắc vòng tròn. Nhìn bề ngoài, thì các kỹ thuật Triệt Quyền Đạo được cho là lấy tốc độ làm chủ, trông có vẻ cương cứng, còn Aikido thì chậm rãi mềm mại và uyển chuyển.
 
Tất cả những điều trên đều đúng.

Khi mới tập môn võ Aikido thì tôi cũng có cảm giác về sự khác nhau này của hai môn võ, nhưng càng luyện tập thì tôi càng cảm nhận được rằng các kỹ thuật và nguyên lý trong Aikido cũng có trong Triệt Quyền Đạo và các nguyên lý của Triệt Quyền Đạo cũng có trong Aikido.
 
Chẳng hạn, trong Aikido để hóa giải đòn chém thẳng của đối thủ (Shomen Uchi)  có rất nhiều kỹ thuật. Trong đó có kỹ thuật IkkyO, khi luyện tập đòn này tôi nhận thấy rằng nguyên lý tiếp cận với đối thủ gần giống với nguyên lý của Triệt Quyền Đạo, cũng có sự ngăn chặn trực tiếp khi đối thủ tung đòn chém, ngoài ra còn rất nhiều các kỹ thuật khác mà tôi đều cảm nhận được sự giống nhau đó. Trong Triệt Quyền Đạo cũng có rất nhiều kỹ thuật chống đối thủ được áp dụng nguyên lý vòng cầu, làm mất trọng tâm đối thủ. Khi luyện tập quả thực tôi cũng đã áp dụng rất nhiều kỹ thuật trong Aikido qua tinh thần của Triệt Quyền Đạo.
 
Cứ luyện tập đến một lúc nào đó bạn sẽ nhận thấy hình như Aikido và Triệt Quyền Đạo chỉ là một. Có nghĩa là bạn sẽ  không còn cảm giác hay thắc mắc gì đó về sự cương hay nhu, cứng hay mềm, bạn sẽ không còn khái niệm thế nào là phòng thủ hay tấn công, lúc đó trong tấn công đã có phòng thủ và trong phòng thủ cũng tiềm ẩn sự tấn công. Có lẽ chính vì thế mà Triệt Quyền Đạo có thể tiếp cận được với tất cả các kỹ thuật khác nhau của các môn phái khác nhau, lúc đó trong bạn sẽ không còn phân biệt giữa Triệt Quyền Đạo và Aikido nữa.


Chính vì lẽ đó mà theo tôi ai cũng có thể tập được Triệt Quyền Đạo, nhất là các bạn đã luyện tập các môn võ khác càng tốt. Vì người sáng lập ra Triệt Quyền Đạo – Lý Tiểu Long đã chỉ ra cho bạn một con đường rất rộng mở và bạn sẽ khởi sự từ những gì mà bản thân bạn đã có.
 
@VS. Bùi Trọng Quốc Quân

Thứ Bảy, 13 tháng 9, 2014

Tiểu sử Ueshiba Morihei, người sáng lập Aikido


Tổ sư Ueshiba Morihei sinh ngày 14/12/1883 tại một thành phố nhỏ tên Tanabe (1) gần Osaka. Tổ sư đại hoàn nguyên vào ngày 26/04/1969. Khi đó Hombu dojo là một toà nhà ba tầng lớn và môn Aikido được hàng trăm ngàn người theo học ở khắp năm châu.
 
 
Từ một cậu bé gầy còm bệnh hoạn
 
Tổ sư Ueshiba Morihei sinh ngày 14/12/1883 tại một thành phố nhỏ tên Tanabe (1) gần Osaka. Ông là con trai thứ tư của một tiểu điền chủ tên Ueshiba Yoroku, với một sản nghiệp gần 20 sào đất. Cụ Ueshiba Yoroku có chân trong hội đồng thị chính, đồng thời cũng là một nhân vật có tên tuổi trong thành phố Tanabe.
 
Thuở thiếu thời, Tổ sư Ueshiba Morihei là một cậu bé thể chất yếu đuối, hay bệnh hoạn và dễ xúc cảm. Năm 7 tuổi, cậu học chữ với một vị sư Phật giáo tên Fujumoto Mitsujo. Vào giai đoạn này thường có những chuyện hoang đường được lưu hành trong vùng Kumano. Những câu chuyện này do Kobodaishi từ Trung Quốc về thuật lại và chúng gây ấn tượng sâu sắc vào tâm trí của cậu Morihei khiến cậu miên man trong những mộng tưởng vô tận. Cha cậu rất lo lắng vì khuynh hướng mơ mộng của cậu bé, và cũng để tăng cường thể lực cho cậu nên bắt Ueshiba Morihei tập sumo (2) và bơi lội. Trong những năm đầu tiên học tiểu học, cậu Morihei còn nhận được ảnh hưởng đào tạo của thầy giáo mình là Nasu Tasaburo, trên cả hai phương diện thể xác và tinh thần. Vị này về sau trở thành một nhân vật quan trọng trong lĩnh vực tôn giáo.
 
Năm lên 13 tuổi cậu vào trường trung học Tanabe nhưng chỉ lưu lại ở đó một năm vì sở thích của cậu là học soroban (3). Ueshiba Morihei có năng khiếu đặc biệt trong môn này và chỉ không đầy một năm sau, cậu tiến bộ đến mức trở thành phụ tá giảng viên. Sau đó cậu vào làm cho nhân viên sở thuế Tanabe. Tại đó, cậu phụ trách về thuế điền thổ. Trong lúc làm công việc thu thuế cậu cũng lưu tâm đến các vấn đề của nông dân và ngư dân và cảm thấy bất bình vì những điều kiện làm việc của họ. Cậu tham gia vào những cuộc biểu tình đòi cải tổ, thay đổi một sắc luật mới về ngư nghiệp. Sau những đàn áp gắt gao, cậu xin từ nhiệm và lên thủ đô Tokyo. Thoạt tiên, cậu làm một chân chạy việc trong một cửa hiệu bán sỉ. Vào mùa xuân 1902, Ueshiba thuê một gian hàng tại Asakusa dưới bảng hiệu Ueshiba Shokai (4) để bán văn phòng phẩm cho các học sinh, sinh viên, trong khu vực.
 
Vào thời điểm này, sự lưu tâm của Ueshiba đối với võ đạo ngày càng tăng. Sau giờ đóng cửa tiệm, chàng chú tâm nghiên cứu các kỹ thuật xưa của Jujutsu, đặc biệt là kỹ thuật môn phái Kyto với võ sư Tozawa; đồng thời chàng cũng tập Kenjutsu (5) tại một đạo đường của phái Shinkage (6). Sau ít tháng, Ueshiba Morihei bị bệnh phù thủng và phải trở lại Tanabe, nơi làng quê của chàng. Tại đó, Ueshiba Morihei kết duyên với một cô bạn thời niên thiếu là Itokawa Hatsu.
 
Từ lúc trở về quê, Ueshiba Morihei thề quyết tạo cho mình một thân hình cường tráng, lực lưỡng. Chàng khổ công theo đuổi một chương trình huấn luyện khắc nghiệt và tiệm tiến, dựa trên điều kiện sức khoẻ và lực cơ bắp. Lúc hai mươi tuổi, dù có một chiều cao nhỏ bé (1m54), Morihei có một sức mạnh trên người bình thường rất nhiều. Nhưng sức mạnh thể xác thuần tuý vẫn không làm chàng thoả mãn, do đó chàng đến Sakai (7) để học hỏi kiếm thuật của môn phái Yagyu (8) với thầy Nakai.
 
Năm 1903, tình hình giữa Nga và Nhật trở nên căng thẳng, Ueshiba đăng ký vào trung đoàn bộ binh 61 đồn trú tại Osaka. Chẳng bao lâu, chàng trở thành vô địch trong tất cả các môn luyện tập và đặc biệt là môn Ju ken jutsu (9).
 
Trung đoàn của Ueshiba Morihei được gởi đến mặt trận Mãn Châu. Tại đó, tác phong gương mẫu của chàng khiến cấp trên lưu ý và chàng được thăng cấp trung sĩ. Khả năng chiến đấu của chàng kỳ diệu đến nỗi các chiến hữu đặt cho chàng biệt danh là “Heitai no kami sama” (10). Lúc chàng được giải ngũ, vị chỉ huy của chàng khuyên chàng vào trường huấn luyện sĩ quan để theo nghiệp binh. Ueshiba Morihei từ chối đề nghị này và về quê nhà để lo việc đồng áng. Trong suốt bốn năm chiến tranh, chàng không ngừng tập luyện võ thuật và vẫn tiếp tục liên lạc với võ sư Nakai, thuộc môn phái Yagyu. Sau đó chàng nhận được bằng của môn phái vào năm 1908.
 
Trong thời gian này, Ueshiba Morihei tràn đầy sinh lực và chú tâm đến các vấn đề chính trị, xã hội trong vùng. Chàng thiết lập một cơ sở tương tự như một câu lạc bộ sinh hoạt thanh niên. Tại đây chàng thiết lập một võ đường để tập luyện Judo với một võ sư tam đẳng vừa mới đến cư ngụ trong thành phố. Vị này, tên Kiyoichi Takagi, sau này trở thành cửu đẳng huyền đai nhu đạo.
 
Trở thành Vua “Shirataki”
 
Năm 1910, chính phủ Nhật muốn khai thác và di dân đến vùng Hokkaido nên kêu gọi những người tình nguyện đi di dân lập nghiệp, Tổ sư Ueshiba Morihei nhận thấy chương trình đó bổ ích nên tập họp một nhóm 80 người để lên đường như những kẻ tiên phong. Sau một cuộc hành trình dài hai tháng, họ đến Hokkaido và hạ trại tại một nơi mà sau này trở thành ngôi làng Shirataki. Sau hai năm khai hoang và lao động vất vả, và họ bắt đầu gặt hái thành quả và quyết định định cư tại đó. Tổ sư Ueshiba Morihei là một người rất dồi dào sáng kiến: ông nghĩ ra việc trồng cây bạc hà, thiết lập một cơ sở khai thác lâm nghiệp. Ông cũng đầu tư vào việc chăn nuôi bò, ngựa và dựng lên tổ hợp chế biến sữa. Với sự thúc đẩy của ông người ta đã dựng lên một trung tâm thương mại, một ngôi trường và một bệnh xá. Ông cũng đã đóng góp vào việc mở mang ngôi chùa Shirataki.
 
Tháng 2/1925, trong chuyến du hành đến Engaru, ông gặp vị đại sư của môn phái Daito tên Takeda Sokaku tại khách sạn Kubota. Đại sư Takeda nhận ra ngay ở chàng thanh niên này một nhân cách phi phàm và ông quyết định truyền thụ lại tất cả các bí quyết của môn phái Daito Ryu (11). Dù thoạt tiên chỉ ghé qua đây, Tổ sư Ueshiba Morihei quyết định kéo dài thời gian và lưu lại một tháng để luyện tập với vị thầy mới của mình.
 
Sau khi trở lại Shirataki, người mở một đạo đường và mời thầy Takeda đến dạy. Người xây cả một ngôi nhà cho thầy mình và chu cấp mọi nhu cầu cho ông ta. Khi nhận được văn bằng đặc biệt của trường phái Daito Ryu thì Tổ sư đã chỉ học với đại sư Takeda vỏn vẹn có một trăm ngày. Thời gian còn lại dành cho việc luyện tập cá nhân.
 
Tháng 6/1918, người ta đề nghị ngài ra ứng cử vào Hội đồng thành phố và ngài đắc cử chức uỷ viên. Cũng vào dạo đó, do sáng kiến của ngài, người ta bắt đầu xây dựng đường xe lửa Hokkaido.
 
Tháng 11/1919, ngài nhận được tin xấu về tình trạng sức khoẻ của thân phụ. Rất xúc động, ngài quyết định bỏ lại tất cả của cải và cùng với gia đình trở về Tanabe.
 
Trên đường về, ngài nghe đồn tại vùng Ayabe có một vị đại sư có nhiều quyền lực tinh thần tên là Deguchi Onisaburo, Tổ sư Ueshiba Morihei quyết định tạt lại thăm đại sư Deguchi để xin ông ta cầu an cho thân phụ mình. Người cảm thấy cần phải có cuộc gặp gỡ này trong lúc đang trải qua thử thách, vì nhận thức rằng dù mình võ nghệ và khí lực tuyệt luân nhưng sức mạnh tinh thần thì vẫn mơ hồ và yếu đuối và dễ bị chao đảo khi gặp một thử thách tâm lý.
 
Thân phụ của người mất ngày 2/1/1920 và người chỉ về đến nhà ở Tanabe hai ngày sau đó.
 
Cái chết của thân phụ làm Tổ sư Ueshiba Morihei rất phiền não, ngài trải qua nhiều tháng trầm tư và quyết định đến cư ngụ tại Ayabe trong ngôi đền của giáo phái Omotokyo để học hỏi với sự hướng dẫn của ngài Deguchi Onisaburo.
 
Omotokyo là một giáo phái thuộc Thần đạo được bà Deguchi Nao sáng lập. Sau khi tiếp nhận được những mặc khải thần linh, giáo phái đã phát triển mạnh khi người rể của bà là Ueda Kitasabuno (sau đổi tên thành Deguchi Onisaburo) trở thành vị thủ lĩnh. Đối với Omotokyo, theo như lời nhận định của giáo sư Jean Herbert thì “Thượng đế là tinh thần thấm nhuần toàn cõi vũ trụ và con người là người quản gia cai trị trời đất. Một khi con người đã hợp nhất được với Thượng đế  thì nó có được một quyền năng vô tận. Con người là đền thờ của Thượng đế và Thượng đế cũng là thành luỹ của con người. Con người và Thượng đế liên lập với nhau”.
 
Omotokyo truyền cho các tín đồ của mình tuân theo ba giới luật để có thể đến gần Thượng đế:
 
1. Hãy quan sát các hiện tượng thực của thiên nhiên và bạn sẽ suy nghiệm được bản thể của chân Thượng Đế.
 
2. Hãy quan sát sự tuần hoàn tuyệt hảo của vũ trụ và bạn sẽ suy nghiệm được năng lực của chân Thượng Đế.
 
3. Bạn hãy quan sát tâm trí của các sinh vật để nhận thức được linh hồn của chân Thượng Đế.
 
Phù Tang đệ nhất kiếm
 
Deguchi Onisaburo bị chính quyền nghi ngờ và đã nhiều lần bị tống ngục vì nhiều lý do, trong đó có lý do phạm thượng đối với Thiên Hoàng và vi phạm luật báo chí. Dù vậy, ông đã hoạt động một cách hăng say trong lĩnh vực xã hội cho những người già yếu, mồ côi, khốn cùng cũng như trong lĩnh vực chữ viết. Là một người chủ trương hoà bình, ông thành lập hiệp hội bảo vệ tình thương và tình huynh đệ thế giới vào năm 1925. Ông liên lạc với nhiều tôn giáo trên thế giới và góp phần sáng lập liên đoàn các tôn giáo thế giới.
 
Ngày 13/2/1924, mặc dù vẫn còn bị chỉ định cư trú do tội khi quân, ông đã lặng lẽ rời nước Nhật để qua Mông Cổ cùng với một số đệ tử, trong đó có Tổ sư Ueshiba Morihei. Họ nuôi mộng xây dựng một vương quốc của hoà bình tại Mông Cổ - nơi các đội quân của Trung Quốc và Nhật đang đánh nhau - bằng cách tạo ra một sự liên minh giữa hai phe đang xâm chiếm và dựa vào thế lực của các tôn giáo mới.
 
Họ thất bại trong sự cố gắng của mình và bị người Trung Quốc bắt giam. Sau nhiều tháng tù đày và hơn một lần thoát chết trong gang tấc, họ bị giải giao về cho chính quyền Nhật. Khi được đưa về Nhật Bản, một đám đông vĩ đại đã đến hoan nghênh khi họ đặt chân lên cảng Moji vào cuối tháng 6/1925.
 
Trở lại Ayabe, Tổ sư Ueshiba Morihei càng nỗ lực nhiều hơn trong việc nghiên cứu về võ đạo và sống một cuộc sống khắc khổ. Chính vào thời điểm này, người tiếp một sĩ quan hải quân vốn là một võ sư Kendo (kiếm đạo) đến thăm, vì được nghe danh của ngài. Trong câu chuyện trao đổi, do bất đồng ý kiến về một số điểm, vị khách đề nghị Tổ sư Ueshiba Morihei tỉ thí. Tổ sư trao cho viên sĩ quan một thanh kiếm gỗ và nói với ông ta là ngài không cần kiếm. Viên sĩ quan liên tiếp tấn công, nhưng vẫn không đụng được ngài. Thấm mệt, ông ta dừng tay và Tổ sư giải thích cho ông là ngài cảm nhận trước những đòn tấn công ngay trước khi ông động thủ. Ngài thấy một loé sáng thoáng chốc trước khi thanh kiếm chạm vào người, nhờ vậy ngài có thể tránh né một cách dễ dàng. Ngài đã có những kinh nghiệm tương tự tại Trung Hoa. Đặc biệt một hôm, một binh lính Trung Hoa bắn ngài và bỗng chốc bị ngạc nhiên không mấy thích thú thấy ngài đang đứng sau lưng mình, ngay sau khi anh ta vừa bóp cò súng.
 
Ít lâu sau cuộc tỉ thí với viên sĩ quan Hải quân, Tổ sư Ueshiba Morihei ra sau vườn đến bờ suối để rửa mặt. Chính vào lúc đó người đã được giác ngộ. Một cảm nhận đột ngột khiến ngài không thể chủ động được và nhận thấy thân mình bỗng trở nên thanh khiết. Đồng thời ngài cảm nhận trời đất bắt đầu rung chuyển. Từ dưới đất như có một nguồn ánh sáng óng ánh vàng toả ra, khi chạm vào thân thể ngài thì nó biến đổi và tự thân toát ra một hào quang uy nghi. Ngài nghe tiếng chim kêu và tự thấy mình linh cảm được những bí mật của đấng tạo hoá.
 
 
Chính vào lúc đó ngài hiểu được cội nguồn của võ đạo chân chính là tình yêu và tinh thần, chân võ đạo là không nhằm chiến thắng đối phương bằng sức mạnh mà giữ được bình an của thế giới, cảm nhận và giúp phát triển mọi loài, mọi vật. Ngài hiểu là việc luyện tập sẽ đưa con người đến chỗ sung mãn đó, đến tình trạng ân sủng, trong đó con ngưởi cảm nhận được sự hoà hợp của thế giới vật chất và thế giới tinh thần.
 
Nếu sự tham gia tinh thần hiện hữu trong tất cả các môn võ thuật Nhật Bản thì trong thực tế chưa hề có người nào đào sâu nó đến độ bao gồm các tình thương nhân loại như mục đích của chân võ đạo. Tình thương thì không đố kỵ, tình thương không có thù địch. Đó là lý do khiến Tổ sư Ueshiba Morihei quyết định gọi võ đạo của ngài là Aikido.
 
“Môn võ đạo lý tưởng”: Aikido (lời của Tổ sư Judo)
 
Từ năm 1926, tên tuổi của Tổ sư Ueshiba Morihei được nhiều người biết đến và nhiều võ đạo gia lừng danh cũng như những nhân vật chính trị, quân sự đều đến tham kiến ngài.
 
Năm 1927, theo lời mời của đô đốc Takeshita (12) Tổ sư Ueshiba Morihei lên Tokyo và bắt đầu dạy cho các sĩ quan cao cấp và các nhà quí tộc. Ngài cũng tổ chức các lớp huấn luyện đặc biệt 21 ngày cho các sĩ quan của đội cận vệ Hoàng gia mà phần lớn đều mang tối thiểu ngũ đẳng trong các môn Judo và Kendo.
 
Ngài còn dạy ở nhiều nơi khác tại Tokyo. Sau đó, ngài được Hoàng tử Shimazu dành một phòng lớn để làm đạo đường. Chẳng bao lâu, căn phòng trở nên quá chật hẹp và sau nhiều cố gắng, ngài thiết lập tại Wakamatsu một đạo đường hoàn toàn mới mang tên Kobokan.
 
Chính tại đây, một hôm vị sáng lập môn phái Judo - Tổ sư Kano Jigoro đến thăm ngài vì được nghe danh môn phái mới của ngài. Khi nhìn Tổ sư Ueshiba Morihei thi triển đòn thế Aikido ở trên sân, đại sư Kano Jigoro đã nói: “Đây chính là môn võ đạo lý tưởng”. Ngay ngày hôm sau, ngài phái các đại đệ tử đến Kobukan để học Aikido.
 
Vào dạo đó, việc thâu nhận đệ tử rất khắc khe, việc luyện tập rất kham khổ, đến độ người ta đã từng mệnh danh nơi đó là “địa ngục trần gian”.
 
 
Trong những năm chiến tranh, đạo đường chỉ hoạt động cầm chừng và phần lớn là do võ sư Ueshiba Kisshomaru (con trai Tổ sư) phụ trách huấn luyện. Về phần mình, Tổ sư Ueshiba Morihei lui về ở Iwama cách Tokyo 120 km, nơi hiện nay có ngôi đền Aikido.
 
Vào năm 1946, người Mỹ cấm mọi việc luyện tập võ thuật trên khắp nước Nhật và đạo đường tại Tokyo được dùng làm chỗ tạm trú cho những gia đình chiến nạn. Cho đến năm 1948, trụ sở đó được gọi là Hombu Dojo (Bản bộ đạo trường). Aikido là môn võ đầu tiên được phép hoạt động trên đất Phù Tang nhờ ở tinh thần hoà hiếu của nó.

 
 

Ngày 09/02/1948, tổ chức Kobukai trở thành Aikikai và được bộ giáo dục công nhận như là một hội công ích. Từ đó, số võ sinh không ngừng gia tăng và một số võ sư Aikido hiện nay từ bát đẳng trở lên đã bắt đầu công việc luyện tập của họ ở đây. Vào những năm 50, Tổ sư Ueshiba Morihei - sắp bước vào tuổi thất tuần - đã nhường công việc giảng dạy lại cho con và các cao đồ của mình phụ trách. Trong số họ, có nhiều người lên đường ra ngoại quốc và truyền bá Aikido trên toàn thế giới.
 
Khi Tổ sư đại hoàn nguyên vào ngày 26/04/1969 thì Hombu dojo là một toà nhà ba tầng lớn và môn Aikido được hàng trăm ngàn người theo học ở khắp năm châu.
 
Tổ sư có bốn người con, một gái và ba trai. Hai người con trai đầu mất lúc còn nhỏ và người con trai còn lại là vị đạo chủ kế tục Tổ sư. Hiện nay người lãnh đạo Trung tâm Aikido thế giới là võ sư Ueshiba Moriteru (cháu nội Tổ sư).
 
Từ dạo đó, ngôi nhà của Aikikai lại được nâng cao lên hai tầng và ngoài 5 lớp luyện tập thường xuyên mỗi ngày còn có những lớp dành cho các môn sinh hoặc các nhóm đặc biệt. Từ 6 giờ sáng đến 8 giờ tối, hàng trăm người đến tập tại Đạo đường Trung ương để đi theo con đường kỳ diệu mà Tổ sư Ueshiba Morihei đã vạch ra.
 
 
 Chú thích:
(1) Tanabe: một thành phố cảng ở quận Wakayama trước thuộc tỉnh Kii.
(2) Sumo: môn vật cổ truyền kỳ cựu của Nhật.
(3) Soroban: một loại bàn toán của Nhật, tương tự bàn toán Trung Hoa.
(4) Shokai: Thương hội, công ty thương mại.
(5) Ken jutsu: kiếm thuật.
(6) Shinkage: “tấm ảnh”, một môn phái võ thuật lâu đời của Nhật.
(7) Sakai: một thị trấn lớn gần thành phố Osaka.
(8) Yagyu: tên của một gia tộc Samourai lừng danh và là tên của một môn phái võ thuật Nhật.
(9) Ju ken jutsu: phương pháp đánh lưỡi lê.
(10) Heitai no kami sama: vua của các chiến binh.
(11) Daito ryu: Đại đông lưu, môn phái Ju jutsu cổ. Hiện do Takeda Tokimune làm  đạo chủ.
(12) Takeshita Isamu (1869-1949): Thuỷ sư đô đốc, nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu võ học. Ông đã ghi lại hàng trăm trang các chi tiết những lời dạy của Tổ sư Ueshiba Morihei trong việc thành lập đạo đường đầu tiên tại Tokyo và dàn xếp cho cuộc biểu diễn rất đặc biệt của Tổ sư trong cấm thành trước mặt Hoàng gia Nhật.
 

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014

QUÁ TRÌNH DU NHẬP CÁC MÔN VÕ VÀO VIỆT NAM

Quá trình du nhập các môn võ vào Việt Nam như thế nào, đối với nhiều người vẫn còn là một thắc mắc…
 
Sau đây chúng ta cùng nhau tìm hiểu quá trình du nhập các môn võ vào Việt Nam nhé!
 
Boxing (Quyền Anh): Có cội nguồn từ La Mã như một trò chơi của những giới quý tộc và sau này được hoàn thiện tại nước Anh. Thông qua người Pháp, Quyền Anh đã du nhập vào nước ta và toàn cõi Đông Dương khoảng năm 1925 với tên võ Hồng Mao (hay boxe Anglais). Ngay từ buổi ban đầu đưa Quyền anh sang, Việt Nam đã có nhiều tay đấm tạo được sự phấn khích cho khán giả và giới mộ điệu trong nước, các nước Đông Dương cũng như gây bất ngờ cho chính người Pháp. Một số võ sĩ tên tuổi từng dành nhiều thắng lợi cũng như đoạt chức vô địch toàn Đông Dương như: Môn, Kid Dempsey (Văn Phát), Đông Phương Sóc, Minh Cảnh… 

Quá trình du nhập các môn võ vào Việt Nam

Boxing

Judo (Nhu Đạo): Có nguồn gốc từ Nhật Bản, nhưng lại đến Việt Nam từ Thái Lan và từ Pháp. Năm 1937 một sĩ quan trong quân đội Hoàng Gia Thái Lan lưu vong sang Việt Nam được Chánh Mật thám Đông Dương thời bấy giờ mời dạy môn Judo cho nhân viên Cảnh sát và Công an và một ít Pháp kiều tập luyện. Đến năm 1946, một Võ sư Judo người Việt Nam mang huyền đai I đẳng là Pham Đăng Cao từ Pháp về Sài Gòn, mở lớp tập tại sân Hào Thành với 2 người Pháp phụ tá là Reiner và Zonca, lúc đầu cũng chỉ có người Pháp theo tập. Một thời gian sau ông Phạm Đăng Cao sang Pháp dự thi huyền đai II đẳng và trở về Việt Nam mở lớp Judo đầu tiên tại Cần Thơ một cách đại chúng khi ông được bổ nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng tại đây.

Quá trình du nhập các môn võ vào Việt Nam

Judo

Tiếp nối công cuộc giới thiệu Judo tại tại Sài gòn của Võ sư Phạm Đăng Cao chính là Võ sư Hồ Cẩm Ngạc từ Nhật về với sự thông thạo của nhiều môn võ thuật khác nhau tại Nhật Bản. Nhưng môn Judo được người Việt Nam chú ý và yêu thích từ năm 1955 khi có sự xuất hiện của Võ sư Phạm Lợi, Võ Sư kiêm Đại Đức Thích Tâm Giác tổ chức các lớp tập phổ biến rộng rải đến nhiều tầng lớp dân chúng tại Sài gòn.
 
Taekwondo (Thái Cực Đạo/Túc Quyền Đạo): Có nguồn gốc từ Nam Triều Tiên, tức là Hàn Quốc ngày nay. Lớp dạy Taekwondo đầu tiên tại Việt Nam được tổ chức tại Trung Tâm võ thuật của Trường Võ Bị Quốc Gia Thủ Đức vào ngày 01/02/1963 do các Huấn luyện viên và Võ sư người Nam Triều Tiên như Nam Tae Hi (7 đẳng), Kim Sung Kyu (5 đẳng), Jion Young Hui (5 đẳng) trưự thuộc Liên đoàn Thái Cực Đạo quốc tế (ITF – International Taekwondo Federation) phụ trách huấn luyện. Trong 63 môn sinh theo tập, lúc mãn khóa vào ngày 30/11/1963chỉ còn 57 người đạt đủ tiêu chuẩn và trong đó chỉ có 6 người đạt trình độ đai đen là: Khúc Văn Bón (thủ khoa), Nguyễn Mười Nho, Nguyễn Văn Cầm, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn Phước Vĩnh và Trang Đức.

Quá trình du nhập các môn võ vào Việt Nam

Taekwondo

Riêng “Liên đoàn Taekwondo Thế Giới” (WTF – World Taekwondo Federation), chính thức mời Việt Nam tham gia với tính cách thành viên vào ngày 16/06/1989 qua cuộc viếng thăm của 2 Võ sư Sok Pong Kim (Phụ trách Liên Đoàn Taekwondo Australia) và Võ sư Ki Yong Song (Liên Đoàn Taekwondo Đông Nam Á). Chuyến đi được uỷ nhiệm bởi WTF của 2 Võ sư trên đã mở một bước ngoặc vô cùng quan trọng trong việc đưa Taekwondo Việt Nam vào một bước ngoặc mới để có thể sánh ngang tầm với nền phát triển của Taekwondo thế giới.
 
Taekwondo và Judo từng được xem là một môn võ thuật có sức thu hút số lượng người tập cao nhất tại Việt Nam từ khi được du nhập vào Việt Nam cho đến ngày hôm nay.
 
Karatedo (Không Thủ Đạo): Gốc từ Okinawa đã đến Huế vào năm 1940 do một người Nhật tên là Choji Suzuki, trước vốn là một binh sĩ thuộc quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản và sau này đã tình nguyện ở lại Việt Nam vào năm 1945. Hiện nay, môn Karatedo do ông Choji Suzuki đã hình thành hai hệ phái Karatedo mới là: Suzucho phát triển mạnh tại Việt Nam, Cương-nhu (Goju) do một học trò của ông đang phát triển mạnh tại Hoa Kỳ.
 
Quá trình du nhập các môn võ vào Việt Nam

Karatedo

Tại Sài Gòn môn Karatedo do Võ sư Hồ Cẩm Ngạc mở lớp huấn luyện đầu tiên từ năm 1951 qua hệ phái Shotokan. Riêng tại Miền Bắc Việt Nam, môn Karatedo du được nhập vào Hà Nội từ Liên Xô do công sức của 2 ông Phạm Quốc Trọng và Hoàng Vĩnh Giang mang về truyền bá, song song với Karatedo do ông Đoàn Đình Long đưa từ xứ Huế ra.
 
Hiệp Khí Đạo (Aikido): Môn võ xuất xứ từ Nhật, nhiều tài liệu lịch sử cho thấy môn Hiệp Khí Đạo lần đầu tiên được truyền dạy tại Sài gòn do Võ sư Hồ Cẩm Ngạc từ Nhật về, tuy nhiên Aikido chính thức được ra mắt và phát triển mạnh tại Sài gòn từ năm 1958 khi Võ sư Đặng Thông Trị, một người Việt từ Pháp về với đẳng cấp huyền đai II đẳng lập nên đạo đường Tenshinkai – Tức là Thiên Tâm (nay là CLB Aikido Đa Kao, số 94 đường Điện Biên Phủ, Q1). Aikido được xem là môn võ thầm lặng nhất dù môn này được từng bước phát triển đi nhiều tỉnh, thành phố lớn tại Việt Nam nhưng do tính đặc thù không thi đấu đối kháng nên Aikido chưa thể hoàn toàn phá triển mạnh mà chỉ thu hút những người thật sự yêu thích.
 
Quá trình du nhập các môn võ vào Việt Nam

Aikido

Võ Thuật (Wushu): Môn Wushu xuất xứ từ Trung Hoa, mặc dù sinh sau đẻ muộn nhưng hiện nay môn võ này có sức hút vô cùng mạnh mẻ tại nhiều tỉnh thành tại Việt Nam. Môn Wushu nối tiếng của Trung Quốc này đã đến Việt Nam từ Liên Xô vào năm 1990. Ông Hoàng Vĩnh Giang nhận được tài liệu giới thiệu và 7 bài giáo khoa môn Wushu từ những người bạn Nga, ông đã đưa về phổ biến đầu tiên tại Hà Nội. Đến tháng 6/1992 sở TDTT Hà Nội mới bắt đầu mời chuyên gia Wushu từ Trung Quốc sang tập huấn cho các VĐV Việt Nam.Ngay từ giửa thập niên 90 với sự giúp sức của chuyên gia Trần Húc Hồng (Trung Quốc) môn Wushu Việt Nam từng bước khẳng định và hội nhập mau chóng vào đấu trường quốc nội, giải Trẻ Châu Á, Giải Wushu thế giới với nhiều huy chương cao quý.
 
Quá trình du nhập các môn võ vào Việt Nam

Wushu

Pencak Silat: Có cội nguồn từ Nam Dương và Mã Lai Á, đã đến Việt Nam vào năm 1989 thông qua SEA Games 15 tổ chức tại Kuala Lumpur (Malaysia). Phó đoàn thể thao của Việt Nam là Hoàng Vĩnh Giang đã sử dụng máy quay phim cầm tay quay lại các trận đấu của môn Silat mang về Việt Nam cùng một quyển sách luật thi đấu bằng Anh Ngữ,
 
Quá trình du nhập các môn võ vào Việt Nam

Pencak silat

Và từ đó hình thành môn Silat ở Việt Nam. Hiện nay môn Silat rất được yêu thích tại Việt Nam vì tạo nhiều cơ hội thi đấu, cọ xát cho các võ sĩ, môn sinh các môn võ cổ truyền Việt Nam vươn lên với tầm vóc quốc tế.
 
Kendo (Kiếm Đạo): Xuất xứ từ Nhật, có mặt tại Việt Nam tại đất Sài Gòn từ năm 1951 do Võ sư Hồ Cẩm Ngạc đem từ Nhật về. Tuy nhiên lớp tập luyện chính thức được mở tại Sài Gòn từ năm 1973 với sự đóng góp và xây dựng tích cực của Hiệp Hội Ái Hữu Việt-Nhật và giới hâm mộ bộ môn Hiệp Khí Đạo tại Việt Nam. Trong nhiều năm qua giới yêu thích môn Kendo tại Việt Nam được sự ủng hộ và giúp đở rất nhiều từ Liên đoàn Kiếm Đạo Nhật Bản như đào tạo Huấn luyện viên, thiết bị tập luyện, học bổng.v.v.. Sự khó khăn trong việc phát triển môn Kendo chính là trang bị tập luyện khá đắt và phải du nhập hầu hết từ nước ngoài.

Quá trình du nhập các môn võ vào Việt Nam

Kendo

Hapkido (Hiệp Khí Đạo Hàn Quốc): Môn Hapkido nghe có vẽ xa lạ với phần đông giới hâm mộ võ thuật tại Việt Nam, nhưng được biết đến tại Miền Nam nhất là tại Thành phố Sài Gòn ngay từ năm 1965, do Tài từ điện ảnh kiêm Võ sư Kim Jin Pal (Kim Chấn Bát) với phòng tập tại đường Nguyễn Huỳnh Đức. Năm 1970 Võ sư Kim Chấn Bát rời Việt Nam dời sang Hồng Kông đóng phim và làm cố vấn cho điện ảnh, ông giao lại võ đường và tổng hội Hapkido cho đồ đệ của mình là Bác sĩ Phạm Gia Cổn. Hiện nay một Bác sĩ Phạm Gia Cổn sinh sống tại Hoa Kỳ được biết đến như là một trong số những người Việt Nam có đẳng cấp Hapkido cao nhất thế giới với Huyền đai 9 đẳng, thuộc thế hệ lớp đầu tiên của Võ sư Kim Chấn Bát. Giới yêu võ thuật được biết nhiều về môn Hapkido sau năm 1975 với cuộc biểu diễn rất ấm tượng của phái đoàn Hapkido Thế Giới tại sân đấu Phan Đình Phùng vào năm 1991.
Quá trình du nhập các môn võ vào Việt Nam

Hapkido

Môn Đấu Kiếm Tây Phương (Fencing): Môn kiếm được đưa vào Việt Nam ngay những năm đầu của Thế Kỷ 20, một trong những người tiên phong trong việc đem môn này vào là Kỹ Sư Bredul Francosis trong khi làm việc tại thương cảng Sài gòn. Ngay từ năm 1950 Việt Nam đã có 2 hiệp hội kiếm thuật hoạt động. Việt Nam từng gởi kiếm sĩ tham dự Thế Vận Hội Helsinki (1952), Melbourne (1956), Roma (1960), Tokyo (1960) v.v.. Nhưng chỉ được tái lập hoạt động vào giữa thập niên 1980 song song với môn bắn cung của Tây Phương.

Quá trình du nhập các môn võ vào Việt Nam

Fencing

Trên đây là sơ lược quá trình du nhập các môn võ vào Việt Nam để các bạn có thêm một số kiến thức tổng hợp về võ thuật.
 
Trí Khải
(sưu tầm)
 
Nguồn: http://thegioivothuat.net