Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền
Nguyên văn Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, đã được Ðại
Hội
Ðồng Liên Hiệp Quốc thông qua và công bố vào ngày 10 tháng 12 năm 1948.
Ðồng Liên Hiệp Quốc thông qua và công bố vào ngày 10 tháng 12 năm 1948.
Xét rằng: Sự thừa nhận nhân cách của tất cả con người trong đại
gia đình nhân loại và những quyền bình đẳng không thể tước đoạt của họ là nền
tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.
Xét rằng: Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến
những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại. Sự kêu gọi thiết lập
một thế giới trong đó tất cả mọi người phải được hưởng quyền tự do ngôn luận,
tự do tín ngưỡng, quyền được giải thoát khỏi sự sợ hãi và nghèo khó, phải được
tuyên xưng như là ước vọng cao nhất của con người.
Xét rằng: Nhân Quyền cần phải được triệt để bảo vệ bằng luật pháp,
để con người không bị bắt buộc phải sử dụng biện pháp cuối cùng là vùng dậy
chống lại độc tài và áp bức.
Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia cần được khuyến
khích và mở rộng.
Xét rằng: Trong Hiến Chương, các dân tộc của cộng đồng Liên Hiệp
Quốc đã lại một lần nữa xác định niềm tin vào những quyền căn bản của con
người, vào nhân phẩm và giá trị nhân vị, vào quyền bình đẳng nam nữ và cũng đã
quyết định cổ vũ cho các tiến bộ xã hội và cải tiến mức nhân sinh trong bối
cảnh ngày càng tự do hơn.
Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp
Quốc, nhằm cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản.
Xét rằng: Một khuôn mẫu chung về nhân quyền và tự do là điều tối
quan trọng để có thể thực hiện đầy đủ sự cam kết trên.
Do đó, Ðại Hội Ðồng
Liên Hiệp Quốc long trọng công bố Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như là một
khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá
nhân và thành phần của xã hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản Tuyên Ngôn,
dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do
này.
Mặt khác, bằng những
phương thức tiến bộ trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, phải bảo đảm sự
thừa nhận và tuân hành Bản Tuyên Ngôn một cách có hiệu lực, không những giữa
các dân tộc của các nước hội viên với nhau, nhưng còn giữa những dân tộc sống
trên các phần đất thuộc thẩm quyền họ cai quản.
Ðiều 1: Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân
phẩm, cũng như quyền lợi. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm. Sự
đối xử giữa con người với nhau phải được trên tinh thần bác ái.
Ðiều 2: Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền và tự do
công bố trong Bản Tuyên Ngôn này và không có một sự phân biệt nào, như chủng
tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan
điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những
hoàn cảnh khác. Hơn nữa, cũng không được có sự phân biệt nào đối với con người
sống trên một quốc gia hay trên một lãnh thổ, căn cứ trên cơ chế chính trị, nền
tảng luật pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ đó. Cho dù quốc
gia hay lãnh thổ này độc lập hay dưới sự bảo hộ, không được tự trị hay ở trong
tình trạng bị hạn chế về chủ quyền.
Ðiều 3: Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh thân
thể.
Ðiều 4: Không ai bị cưỡng bức làm nô lệ hay tôi đòi. Chế độ nô
lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm.
Ðiều 5: Không một người nào phải chịu cực hình, tra tấn, hay bất
kỳ hình thức đối xử, hoặc trừng phạt bất nhân, hay có tính cách lăng nhục.
Ðiều 6: Ở bất cứ nơi nào, mỗi người đều có quyền được công nhận
tư cách của mình trước pháp luật.
Ðiều 7: Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và phải
được bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị phân biệt. Tất cả đều được quyền
bảo vệ ngang nhau, chống lại mọi kỳ thị vi phạm Bản Tuyên Ngôn này, cũng như
chống lại mọi khiêu khích dẫn đến kỳ thị như vậy.
Ðiều 8: Mọi người đều có quyền được kháng tố trước các cơ quan
tư pháp quốc gia có thẩm quyền về các hành vi vi phạm các quyền căn bản, do
Hiến Pháp và Luật Pháp quy định.
Ðiều 9: Không một ai bị bắt bớ, cầm tù hay lưu đày một cách độc
đoán.
Ðiều 10: Mọi người đều có ngang nhau quyền được phân xử công khai
và công bằng, trước một tòa án độc lập và vô tư, để được phán quyết về các
quyền lợi và nhiệm vụ của mình, hay về những tội phạm mà mình bị cáo buộc.
Ðiều 11:
(1) Khi truy tố trước pháp luật, mọi người được xem là vô tội, cho đến khi pháp luật chứng minh là có tội, trong một phiên tòa công khai và tòa án này phải cung ứng tất cả mọi bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ của đương sự.
(2) Không ai có thể bị kết án khi có những hành động hay sơ suất xảy ra vào lúc mà luật pháp của quốc gia hay quốc tế không qui định đó là một hành vi phạm pháp. Tương tự như vậy, không được áp đặt một hình phạt nào nặng hơn hình phạt được ấn định vào lúc hành vi phạm pháp xảy ra.
(1) Khi truy tố trước pháp luật, mọi người được xem là vô tội, cho đến khi pháp luật chứng minh là có tội, trong một phiên tòa công khai và tòa án này phải cung ứng tất cả mọi bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ của đương sự.
(2) Không ai có thể bị kết án khi có những hành động hay sơ suất xảy ra vào lúc mà luật pháp của quốc gia hay quốc tế không qui định đó là một hành vi phạm pháp. Tương tự như vậy, không được áp đặt một hình phạt nào nặng hơn hình phạt được ấn định vào lúc hành vi phạm pháp xảy ra.
Ðiều 12: Không một ai bị xâm phạm một cách độc đoán về đời sống
riêng tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hay tiếng
tăm của mình. Mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ, trước những xâm
phạm và xúc phạm như vậy.
Ðiều 13:
(1) Mọi người có quyền tự do di chuyển và cư trú, trong phạm vi biên giới của quốc gia.
(2) Mọi người đều có quyền rời bỏ lãnh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của mình, và quyền trở về xứ sở.
(1) Mọi người có quyền tự do di chuyển và cư trú, trong phạm vi biên giới của quốc gia.
(2) Mọi người đều có quyền rời bỏ lãnh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của mình, và quyền trở về xứ sở.
Ðiều 14:
(1) Trước sự ngược đãi, mọi người đều có quyền tị nạn và tìm sự dung thân tại các quốc gia khác.
(2) Quyền này không được kể đến, trong trường hợp bị truy nã thật sự vì các tội phạm ngoài lý do chính trị, hay do những hành vi trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
(1) Trước sự ngược đãi, mọi người đều có quyền tị nạn và tìm sự dung thân tại các quốc gia khác.
(2) Quyền này không được kể đến, trong trường hợp bị truy nã thật sự vì các tội phạm ngoài lý do chính trị, hay do những hành vi trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
Ðiều 15:
(1) Mọi người đều có quyền có quốc tịch.
(2) Không một ai bị tước bỏ quốc tịch, hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch, một cách độc đoán.
(1) Mọi người đều có quyền có quốc tịch.
(2) Không một ai bị tước bỏ quốc tịch, hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch, một cách độc đoán.
Ðiều 16:
(1) Nam và nữ trong tuổi trưởng thành có quyền kết hôn và lập gia đình, mà không bị hạn chế về lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam nữ đều có quyền bình đẳng lúc kết hôn, trong đời sống vợ chồng và lúc ly hôn.
(2) Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả hai vợ chồng tương lai đều được tự do quyết định và đồng ý thật sự.
(3) Gia đình phải được xem là một đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và được quyền bảo vệ của xã hội và quốc gia.
(1) Nam và nữ trong tuổi trưởng thành có quyền kết hôn và lập gia đình, mà không bị hạn chế về lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam nữ đều có quyền bình đẳng lúc kết hôn, trong đời sống vợ chồng và lúc ly hôn.
(2) Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả hai vợ chồng tương lai đều được tự do quyết định và đồng ý thật sự.
(3) Gia đình phải được xem là một đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và được quyền bảo vệ của xã hội và quốc gia.
Ðiều 17:
(1) Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể.
(2) Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách độc đoán.
(1) Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể.
(2) Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách độc đoán.
Ðiều 18: Mọi người đều có quyền về tự do tư tưởng, nhận thức và
tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng,
cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình, với tư cách cá
nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay trong chỗ tư nhân, bằng sự truyền dạy,
thực hành, thờ phượng và áp dụng các nghi thức đạo giáo.
Ðiều 19: Mọi người đều có quyền tự do tư duy và ngôn luận. Quyền
này bao gồm quyền không bị gây khó khăn vì quan điểm của mình và quyền được tìm
kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và ý kiến qua mọi phương tiện truyền thông
và qua mọi biên giới.
Ðiều 20:
(1) Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội, một cách hòa bình.
(2) Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào một đoàn thể.
(1) Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội, một cách hòa bình.
(2) Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào một đoàn thể.
Ðiều 21:
(1) Mọi người đều có quyền tham gia vào việc điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu được tuyển chọn một cách hoàn toàn tự do.
(2) Mọi người đều có ngang nhau quyền nhận lãnh những trách nhiệm chung của quốc gia của họ.
(3) Ý muốn của nhân dân phải là nền tảng của quyền lực chính quyền. Ý muốn này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và nghiêm chỉnh, bằng phiếu kín, qua phương thức phổ thông và bình đẳng đầu phiếu, hay các phương thức tương đương bảo đảm tự do bầu cử.
(1) Mọi người đều có quyền tham gia vào việc điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu được tuyển chọn một cách hoàn toàn tự do.
(2) Mọi người đều có ngang nhau quyền nhận lãnh những trách nhiệm chung của quốc gia của họ.
(3) Ý muốn của nhân dân phải là nền tảng của quyền lực chính quyền. Ý muốn này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và nghiêm chỉnh, bằng phiếu kín, qua phương thức phổ thông và bình đẳng đầu phiếu, hay các phương thức tương đương bảo đảm tự do bầu cử.
Ðiều 22: Vì là thành viên của xã hội, mỗi người đều có quyền an
ninh xã hội, qua các cố gắng của quốc gia và hợp tác quốc tế, dựa theo phương
cách tổ chức và tài nguyên của mỗi nước. Quyền này được đặt trên căn bản của sự
thụ hưởng những quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, cần thiết cho nhân phẩm và
sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.
Ðiều 23:
(1) Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do chọn việc làm, quyền được hưởng các điều kiện làm việc chính đáng và thuận lợi đối với công việc, và quyền được bảo vệ chống thất nghiệp.
(2) Mọi người, không vì lý do kỳ thị nào, đều có quyền được hưởng lương bổng như nhau, nếu cùng làm một công việc như nhau.
(3) Mọi người làm việc đều được quyền hưởng thù lao một cách công bằng và thích hợp, khả dĩ bảo đảm cho bản thân và gia đình mình một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm, cũng như được trợ giúp nếu cần, qua các phương thức bảo vệ xã hội khác.
(4) Mọi người đều có quyền thành lập và tham gia vào các nghiệp đoàn, để bảo vệ quyền lợi của mình.
(1) Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do chọn việc làm, quyền được hưởng các điều kiện làm việc chính đáng và thuận lợi đối với công việc, và quyền được bảo vệ chống thất nghiệp.
(2) Mọi người, không vì lý do kỳ thị nào, đều có quyền được hưởng lương bổng như nhau, nếu cùng làm một công việc như nhau.
(3) Mọi người làm việc đều được quyền hưởng thù lao một cách công bằng và thích hợp, khả dĩ bảo đảm cho bản thân và gia đình mình một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm, cũng như được trợ giúp nếu cần, qua các phương thức bảo vệ xã hội khác.
(4) Mọi người đều có quyền thành lập và tham gia vào các nghiệp đoàn, để bảo vệ quyền lợi của mình.
Ðiều 24: Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, nhất là sự
giới hạn số giờ làm việc một cách hợp lý, và các ngày nghỉ định kỳ có trả
lương.
Ðiều 25:
(1) Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và gia đình bao gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, quyền an sinh trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tình trạng bất khiển dụng, góa bụa, tuổi già hay các tình huống thiếu thốn khác do các hoàn cảnh ngoài khả năng kiểm soát của mình.
(2) Sinh sản và trẻ con có quyền được chăm sóc và trợ giúp đặcbiệt. Tất cả mọi trẻ con, sinh có hôn thú hay không, đều được xã hội bảo vệ một cách bình đẳng như nhau.
(1) Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và gia đình bao gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, quyền an sinh trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tình trạng bất khiển dụng, góa bụa, tuổi già hay các tình huống thiếu thốn khác do các hoàn cảnh ngoài khả năng kiểm soát của mình.
(2) Sinh sản và trẻ con có quyền được chăm sóc và trợ giúp đặcbiệt. Tất cả mọi trẻ con, sinh có hôn thú hay không, đều được xã hội bảo vệ một cách bình đẳng như nhau.
Ðiều 26:
(1) Mọi người đều có quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là trong trường hợp cưỡng bách giáo dục ở bậc tiểu học. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được mở rộng và giáo dục đại học phải được mở rộng bình đẳng cho mọi người, trên căn bản tài năng xứng đáng.
(2) Giáo dục phải được điều hướng để phát triển đầy đủ nhân cách, và củng cố sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản. Giáo dục phải nhằm cổ vũ sự cảm thông, lòng khoan dung, và tình hữu nghị giữa mọi quốc gia, mọi nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, và hỗ trợ việc phát triển các sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc nhằm duy trì hòa bình.
(3) Cha mẹ có quyền ưu tiên chọn lựa phương cách giáo dục dành cho con cái mình.
(1) Mọi người đều có quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là trong trường hợp cưỡng bách giáo dục ở bậc tiểu học. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được mở rộng và giáo dục đại học phải được mở rộng bình đẳng cho mọi người, trên căn bản tài năng xứng đáng.
(2) Giáo dục phải được điều hướng để phát triển đầy đủ nhân cách, và củng cố sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản. Giáo dục phải nhằm cổ vũ sự cảm thông, lòng khoan dung, và tình hữu nghị giữa mọi quốc gia, mọi nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, và hỗ trợ việc phát triển các sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc nhằm duy trì hòa bình.
(3) Cha mẹ có quyền ưu tiên chọn lựa phương cách giáo dục dành cho con cái mình.
Ðiều 27:
(1) Mọi người đều có quyền tự do tham gia sinh hoạt văn hóa cộng đồng, thưởng thức các bộ môn nghệ thuật, và cùng chia xẻ các tiến bộ khoa học cũng như các lợi ích của khoa học.
(2) Mọi người đều có quyền được bảo vệ về tác quyền, trên bình diện tinh thần cũng như quyền lợi vật chất, đối với các tác phẩm khoa học, văn chương, hay nghệ thuật.
(1) Mọi người đều có quyền tự do tham gia sinh hoạt văn hóa cộng đồng, thưởng thức các bộ môn nghệ thuật, và cùng chia xẻ các tiến bộ khoa học cũng như các lợi ích của khoa học.
(2) Mọi người đều có quyền được bảo vệ về tác quyền, trên bình diện tinh thần cũng như quyền lợi vật chất, đối với các tác phẩm khoa học, văn chương, hay nghệ thuật.
Ðiều 28: Mọi người đều có quyền đòi hỏi được sống trong một trật
tự xã hội và trật tự quốc tế, trong đó các quyền và các tự do được đề cập trong
Bản Tuyên Ngôn này có thể được thể hiện đầy đủ.
Ðiều 29:
(1) Mọi người đều có nhiệm vụ đối với cộng đồng nào mà chỉ trong đó mới thực hiện được việc phát triển toàn vẹn và tự do nhân cách của mình.
(2) Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định – và những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ.
(3) Trong bất cứ trường hợp nào, nhân quyền và những quyền tự do này cũng không được hành xử trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
(1) Mọi người đều có nhiệm vụ đối với cộng đồng nào mà chỉ trong đó mới thực hiện được việc phát triển toàn vẹn và tự do nhân cách của mình.
(2) Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định – và những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ.
(3) Trong bất cứ trường hợp nào, nhân quyền và những quyền tự do này cũng không được hành xử trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
Ðiều 30: Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn này cho phép một
nước, một nhóm hay một cá nhân nào được quyền viện dẫn bất cứ lý do gì để có
những việc làm hay hành động nhằm hủy diệt nhân quyền và tự do được thừa nhận
trong bản Tuyên Ngôn này.
Liên Hiệp Quốc, ngày 10 tháng 12 năm 1948
*
* * *
* * *
* * *
Công
Ước Quốc Tế về những quyền
Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa (1966)
Xét rằng : chiếu theo những nguyên tắc công bố trong Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc, việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình
đẳng và bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân
loại là nền móng của tự do, công lý và hòa bình thế giới.
Nhìn nhận
rằng :
những quyền này xuất phát từ phẩm giá bẩm sinh của con người.
Nhìn nhận
rằng :
chiếu theo Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, lý tưởng về một con người tự do được
giải phóng khỏi sự sợ hãi và khốn cùng, chỉ có thể đạt được nếu hội đủ những
điều kiện thuận tiện để con người được hưởng những quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa, cũng như những quyền dân sự và chính trị.
Xét rằng : nghĩa vụ của các quốc gia hội viên theo Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc là phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những
nhân quyền và những quyền tự do của con người.
Nhận định
rằng : con
người có nghĩa vụ đối với những người khác cũng như đối với cộng đồng, nên có
trách nhiệm phải phát huy và tôn trọng những quyền được nhìn nhận trong Công
Ước này.
Ðồng chấp
thuận những điều khoản sau đây :
Phần I
Ðiều 1 :
1/ Các dân tộc đều có
quyền tự quyết. Chiếu theo quyền này, họ được tự do quyết định về chế độ chính
trị và tự do theo đuổi đường hướng phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa.
2/ Ðể đạt được mục
tiêu này, các dân tộc có quyền tự do sử dụng các nguồn lợi thiên nhiên của
mình, miễn là không vi phạm những nghĩa vụ phát sinh từ sự hợp tác quốc tế về
kinh tế, đặt căn bản trên quyền lợi hỗ tương và luật pháp quốc tế. Trong mọi
trường hợp các phương tiện sinh sống của người dân không thể bị tước đoạt.
3/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này, kể cả những quốc gia có trách nhiệm bảo hộ hay giám
hộ các lãnh thổ khác, phải tôn trọng và xúc tiến việc thực thi quyền dân tộc tự
quyết chiếu theo các điều khoản của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Phần II
Ðiều 2 :
1/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này cam kết, sẽ tự mình và do sự tương trợ và hợp tác quốc
tế, đặc biệt về kinh tế và kỹ thuật, ban hành những biện pháp tận dụng những
nguồn lợi quốc gia vào mục đích thực thi lũy tiến và đầy đủ những quyền được
nhìn nhận trong Công Ước này bằng những phương pháp thích nghi, đặc biệt là
bằng việc ban hành các đạo luật.
2/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này cam kết bảo đảm thực thi các quyền liệt kê trong Công
Ước này không phân biệt chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính
kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ
thân trạng nào khác.
3/ Trong chiều hướng
tôn trọng nhân quyền và căn cứ vào khả năng kinh tế trong nước, các quốc gia
đang phát triển có thể ấn định những quyền kinh tế nào trong Công Ước này sẽ
được bảo đảm áp dụng cho những người không có tư cách công dân.
Ðiều 3 :
Các quốc gia hội viên
ký kết Công Ước này cam kết bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ trong việc hành sử
những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa liệt kê trong Công Ước này.
Ðiều 4 :
Các quốc gia hội viên
ký kết Công Ước này nhìn nhận rằng, về việc hành sử những quyền ghi trong Công
Ước, họ chỉ có thể ấn định các giới hạn luật định phụ hợp với bản chất của
những quyền này và chỉ nhằm mục đích phát huy sự an lạc chung trong một xã hội
dân chủ.
Ðiều 5 :
1/ Không một quốc
gia, một phe nhóm hay một cá nhân nào có quyền giải thích các điều khoản trong
Công Ước này để cho phép họ hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu diệt
những quyền tự do đã được Công Ước thừa nhận, hoặc để giới hạn những quyền tự
do này quá mức ấn định trong Công Ước.
2/ Các quốc gia nào
đã thừa nhận một số nhân quyền căn bản trong luật pháp quốc gia, công ước, quy
chế hay tục lệ, sẽ không được quyền giới hạn hay đình chỉ thi hành các nhân
quyền căn bản đó,
viện cớ rằng Công Ước này không thừa nhận những nhân quyền đó, hay chỉ thừa nhận trong một phạm vi hạn hẹp hơn.
viện cớ rằng Công Ước này không thừa nhận những nhân quyền đó, hay chỉ thừa nhận trong một phạm vi hạn hẹp hơn.
Phần III
Ðiều 6 :
1/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này thừa nhận cho mọi người quyền làm việc và cam kết sẽ
ban hành những biện pháp để bảo đảm quyền này. Quyền làm việc bao gồm quyền có
cơ hội sinh sống nhờ công việc, quyền tự do nhận việc hay lựa chọn việc làm.
2/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này sẽ ban hành những biện pháp để thực thi đầy đủ quyền
làm việc, như những chương trình huấn luyện, hướng dẫn kỹ thuật và hướng
nghiệp, những chính sách và kỹ thuật để phát triển đều đặn về kinh tế, xã hội
và văn hóa, cùng sự toàn dụng nhân công vào việc sản xuất trong điều kiện những
quyền tự do chính trị và kinh tế căn bản của cá nhân được bảo đảm.
Ðiều 7 :
Các quốc gia hội viên
ký kết Công Ước này nhìn nhận cho mọi người quyền được hưởng những điều kiện
làm việc công bằng và thuận lợi, đặc biệt với những bảo đảm sau đây :
a. Về việc trả lương
cho các công nhân, tối thiểu phải có :
i) Tiền lương tương
xứng và công bằng cho các công việc có giá trị ngang nhau không phân biệt đối
xử. Ðặc biệt phụ nữ được bảo đảm có những điều kiện làm việc tương xứng như nam
giới, làm việc ngang nhau được trả lương ngang nhau.
ii) Một mức sống xứng
đáng cho bản thân và gia đình phù hợp với những điều khoản của Công Ước này.
b. Có điều kiện làm
việc an toàn và không hại đến sức khỏe.
c. Có cơ hội thăng
tiến đồng điều cho mọi người và chỉ căn cứ vào thâm niên và khả năng.
d. Có quyền nghỉ ngơi
và giải trí, được ấn định hợp lý số giờ làm việc, kể cả những ngày nghỉ định kỳ
có trả lương.
Ðiều 8 :
1/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này cam kết bảo đảm :
a) Quyền tự do thành
lập nghiệp đoàn và tham gia nghiệp đoàn (theo nội quy và điều lệ), để bảo vệ và
gia tăng quyền lợi kinh tế và xã hội của mình. Sự hành sử quyền này chỉ có thể
bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu sinh hoạt trong một xã hội dân chủ để bảo vệ
an ninh quốc gia, trật tự công cộng, hay sự hành sử quyền tự do của người khác.
b) Quyền của các
nghiệp đoàn được kết hợp thành các tổng liên đoàn quốc gia, và từ đó thành lập
hay gia nhập các tổ chức tổng liên đoàn quốc tế.
c) Các nghiệp đoàn
được quyền tự do hoạt động và chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu sinh
hoạt trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng,
hay sự hành sử quyền tự do của những người khác.
d) Quyền đình công
được hành xử theo luật quốc gia.
2/ Ðiều luật này không
có tác dụng ngăn cấm việc ban hành các giới hạn luật định liên quan đến sự hành
sử những quyền này của các giới quân nhân, cảnh sát và công chức quốc gia.
3/ Ðiều luật này
không có hiệu lực cho phép các quốc gia hội viên ký kết Công Ước Lao Ðộng Quốc
Tế năm 1948 về Quyền Tự Do Lập Hội và Bảo Vệ Quyền Lập Hội được ban hành những
đạo luật có tác dụng vi phạm những bảo đảm ghi trong Công Ước Lao Ðộng Quốc Tế.
Ðiều 9 :
Các quốc gia hội viên
ký kết Công Ước này thừa nhận quyền của mọi người được hưởng an sinh xã hội và
bảo hiểm xã hội.
Ðiều 10 :
Các quốc gia hội viên
ký kết Công Ước này nhìn nhận rằng :
1/ Vì gia đình là đơn
vị tự nhiên và căn bản trong xã hội nên phải được bảo vệ và hỗ trợ mạnh mẽ
nhất, đặc biệt trong giai đoạn thành lập và trong khi thi hành nghĩa vụ chăm
sóc và giáo dục các trẻ em. Hôn thú được thành lập do sự ưng thuận tự do của
những người kết hôn.
2/ Xã hội phải đặc
biệt giúp đỡ các sản phụ trong một thời gian hợp lý trước và sau khi sinh nở.
Trong thời gian này, các bà mẹ đi làm được nghỉ phép có trả lương hay được
hưởng trợ cấp an sinh xã hội cần thiết.
3/ Quốc gia phải ban
hành những biện pháp đặc biệt để bảo vệ và hỗ trợ các trẻ em và thiếu niên
không phân biệt tình trạng phụ hệ hay bất cứ thân trạng nào khác. Trẻ em và
thiếu niên phải được bảo vệ chống mọi hình thức bóc lột về kinh tế và xã hội.
Các thiếu niên không được tuyển dụng vào các công việc nguy hiểm đến đời sống
hay phương hại đến đạo lý, sức khỏe hay đến sự phát triển bình thường của tuổi
trẻ. Vi phạm điều này phải bị truy tố theo luật. Quốc gia cũng phải ấn định số
tuổi tối thiểu cho các thiếu niên làm việc lao động có trả lương. Tuyển dụng
các thiếu niên dưới tuổi luật định phải bị cấm chỉ và truy tố theo luật.
Ðiều 11 :
1/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này thừa nhận cho mọi người quyền được hưởng một mức sống
khả quan cho bản thân và gia đình, đủ cơm ăn, áo mặc và nhà ở. Mức sống này
phải được nâng cao liên tục. Các quốc gia hội viên kết ước sẽ ban hành những
biện pháp thích nghi để quyền này được thực hiện, ý thức rằng sự hợp tác quốc
tế trên căn bản tự nguyện giữ vai trò thiết yếu trong việc này.
2/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này thừa nhận cho mọi người quyền căn bản được giải thoát
khỏi sự đói khổ, và cam kết sẽ ban hành những biện pháp do quốc gia và do sự
hợp tác quốc tế, để thực hiện những chương trình đặc biệt cần thiết như :
a) Cải tiến những
phương pháp sản xuất, tồn trữ và phân phối thực phẩm bằng cách tận dụng các
kiến thức khoa học kỹ thuật, phổ biến các kiến thức về dinh dưỡng, phát triển hay
canh tân nông nghiệp để đạt được năng suất tối đa về phát triển và sử dụng tài
nguyên thiên nhiên.
b) Trên phạm vi toàn
cầu, phải tiến tới sự phân phối công bằng và hợp lý các thực phẩm trên thế giới
tùy theo khả năng của các quốc gia suất cảng thực phẩm và nhu cầu của các quốc
gia nhập cảng thực phẩm.
Ðiều 12 :
1/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này thừa nhận cho mọi người được hưởng tiêu chuẩn cao nhất
về sức khỏe thể chất và tâm thần.
2/ Ðể quyền này được
thực thi đầy đủ, các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này sẽ ban hành những
biện pháp cần thiết sau đây :
a) Giảm bớt tỷ lệ tử
vong của thai nhi và hài nhi, bảo vệ sức khỏe và sự phát triển của trẻ em.
b) Cải thiện những
điều kiện vệ sinh trong môi trường sinh thái và môi trường kỹ nghệ.
c) Ngăn ngừa, điều
trị và kiểm soát các bệnh dịch, các bệnh đặc biệt tại một địa phương hay tại
một loại nghề nghiệp, cũng như các bệnh khác.
d) Tạo điều kiện để
bảo đảm việc cung cấp các dịch vụ y tế và chăm sóc bệnh nhân khi đau yếu.
Ðiều 13 :
1/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này thừa nhận cho mọi người quyền được hưởng giáo dục.
Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách và nhân phẩm, tăng cường sự tôn
trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản; cho mọi người được thực sự tham
gia sinh hoạt trong một xã hội tự do, đề cao sự thông cảm, bao dung và hữu nghị
giữa các quốc gia, các cộng đồng sắc tộc, chủng tộc hay tôn giáo, và yểm trợ
các hoạt động của Liên Hiệp Quốc trong việc duy trì hòa bình.
2/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này nhìn nhận rằng, đường hướng sau đây sẽ giúp việc thực
hiện đầy đủ quyền giáo dục :
a) Giáo dục tiểu học
phải có tính cách cưỡng bách và miễn phí cho tất cả mọi người.
b) Giáo dục trung học
kể cả các ngành phổ thông, kỹ thuật và hướng nghiệp phải được phổ cập cho tất
cả mọi người bằng những phương pháp thích nghi và đặc biệt phải tiến dần đến
miễn phí.
c) Giáo dục đại học
phải được phổ cập bình đẳng cho mọi sinh viên bằng những phương pháp thích
nghi, căn cứ vào khả năng, và đặc biệt phải tiến dần đến miễn phí.
d) Giáo dục căn bản
tráng niên được khuyến khích và tăng cường tối đa cho những người chưa tốt
nghiệp tiểu học.
e) Hệ thống giáo dục
các cấp phải được tích cực phát triển, hệ thống học bỗng tu nghiệp phải được
thiết lập và điều kiện vật chất của các nhân viên giảng huấn phải được cải
thiện liên tục.
3/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này cam kết tôn trọng quyền tự do của phụ huynh học sinh
hay người giám hộ, được lựa chọn trường cho con em ngoài hệ thống giáo dục công
lập, nếu trường này hội đủ những tiêu chuẩn giáo dục tối thiểu do quốc gia ấn
định. Các phụ huynh hay người giám hộ cũng được quyền phụ trách về giáo dục tôn
giáo và đạo lý cho con em theo tín ngưỡng của họ.
4/ Ðiều luật này
không có tác dụng can thiệp vào quyền tự do của các cá nhân hay tổ chức trong
việc thiết lập và điều hành các định chế giáo dục tư thục với điều kiện cùng
theo đuổi những mục tiêu giáo dục nêu ở khoản 1 điều này, và nếu hội đủ tiêu
chuẩn giaó dục tối thiểu do quốc gia ấn định.
Ðiều 14 :
Trong thời gian ký
kết hay gia nhập Công Ước này, nếu các quốc gia hội viên nào chưa tổ chức được
hệ thống tiểu học cưỡng bách và miễn phí trong quản hạt quốc gia (hay trong các
lãnh thổ mà họ bảo hộ hay giám hộ), họ cam kết sẽ thiết lập trong vòng hai năm
một chương trình hành động với đầy đủ chi tiết để tuần tự ban hành trong một
thời gian hợp lý có ghi rõ trong chương trình, một hệ thống giáo dục cưỡng bách
và miễn phí cho tất cả các học sinh tiểu học.
Ðiều 15 :
1/ Các quốc gia hội
viên ký kết công ước này thừa nhận quyền của mọi người :
a) Ðược tham gia vào
đời sống văn hóa.
b) Ðược hưởng các lợi
ích của những tiến bộ và sáng chế khoa học.
c) Ðược bảo vệ những
quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ những sản phẩm khoa học, văn học
hay nghệ thuật của mình.
2/ Ðể thực thi đầy đủ
quyền này, các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết sẽ ban hành những
biện pháp cần thiết trong việc bảo tồn, phát triển và phổ biến khoa học và văn
hóa.
3/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này cam kết tôn trọng quyền tự do cần thiết cho việc
nghiên cứu khoa học và sáng tạo văn học nghệ thuật.
4/ Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này ghi nhận những lợi ích trong việc khuyến khích và phát
triển những liên lạc và hợp tác quốc tế trên lãnh vực khoa học và văn hóa.
*
* * *
* * *
* * *
Công
Ước Quốc Tế
về những quyền Dân Sự và Chính Trị (1966 )
Lời Mở Ðầu
Các Quốc
Gia Hội Viên ký kết Công Ước này :
Xét rằng,
chiếu theo những nguyên tắc công bố trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, việc thừa
nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng và bất khả chuyển nhượng của
tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền móng của tự do, công lý
và hoà bình thế giới.
Nhìn nhận
rằng những quyền này xuất phát từ phẩm giá bẩm sinh của con người.
Nhìn nhận
rằng, chiếu theo Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, lý tưởng về một con người tự do
được hành sử những quyền dân sự và chính trị cũng như được giải phóng khỏi sự
sợ hãi và khốn cùng, chỉ có thể đạt được nếu hội đủ những điều kiện thuận tiện
để con người được hưởng những quyền dân sự và chính trị cũng như những kinh tế,
xã hội và văn hóa.
Xét rằng
nghĩa vụ của các quốc gia hội viên theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là phát huy
sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do
của con người.
Nhận định
rằng con người có nghĩa vụ đối với những người khác cũng như đối với cộng đồng,
nên có trách nhiệm phải phát huy và tôn trọng những quyền được nhìn nhận trong
Công Ước này,
Ðồng chấp
thuận những điều khoản sau đây :
Phần I
Ðiều 1:
1) Các dân tộc điều
có quyền tự quyết. Chiếu theo quyền này, họ được tự do quyết định về chế độ
chính trị và tự do theo đuổi đường hướng phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa.
2) Ðể đạt được mục
tiêu này, các dân tộc có quyền tự do sử dụng các nguồn lợi thiên nhiên của
mình, miễn là không vi phạm những nghĩa vụ phát sinh từ sự hợp tác quốc tế về
kinh tế, đặt căn bản trên quyền lợi hỗ tương và luật pháp quốc tế. Trong mọi
trường hợp các phương tiện sinh sống của người dân không thể bị tước đoạt.
3) Các quốc gia hội
viên ký Công Ước này, kể cả những quốc gia có trách nhiệm bảo hộ hay giám hộ
các lãnh thổ khác, phải tôn trọng và xúc tiến việc thực thi quyền dân tộc tự
quyết chiếu theo các điều khoản của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Phần II
Ðiều 2:
1) Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này cam kết tôn trọng và bảo đảm thực thi những quyền được
ghi trong Công Ước cho tất cả mọi người sống trong lãnh thổ và thuộc thẩm quyền
quốc gia, không phân biệt chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính
kiến hay quan niệm nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản dòng dõi hay bất cứ
thân trạng nào khác.
2) Trong trường hợp
những quyền được nhìn nhận trong Công Ước này chưa được qui định thành văn
trong luật pháp quốc gia, các quốc gia hội viên ký kết Công Ước cam kết sẽ ban
hành các đạo luật theo thủ tục lập pháp quốc gia và theo các điều khoản của
Công Ước để các quyền này có hiệu lực.
3) Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước cam kết này:
a) Bảo đảm cho các
nạn nhân quyền được đền bù hay được bồi thường thỏa đáng khi những quyền tự do
của họ bị vi phạm, dù rằng người vi phạm là một viên chức chính quyền,
b) Bảo đảm cho nạn
nhân được quyền khiếu nại tại các tư pháp, hành chánh hay lập pháp quốc gia,
hay tại các cơ quan có thẩm quyền và phát triển quyền khiếu tố trước toà án,
c) Bảo đảm các cơ
quan có thẩm quyền phải thi hành ngiêm chỉnh những sự đền bù hay bồi thường đã
tuyên bố.
Ðiều 3 : Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này cam kết bảo đảm
quyền bình đẳng nam nữ trong việc hành sử những quyền dân sự và chính trị ghi
trong Công Ước.
Ðiều 4
1) Trong khi tuyên bố
tình trạng khẩn trương công cộng vì lý do quốc gia bị đe dọa, các quốc gia hội
viên ký Công Ước này có thể ban hành một số biện pháp đình chỉ thi hành các
nghĩa vụ của quốc gia ấn định trong Công Ước này. Tuy nhiên những biện pháp này
phải có tính cách thật cần thiết vì nhu cầu của tình thế, và không vi phạm các
nghĩa vụ của các quốc gia phát sinh từ luật pháp quốc tế, và cũng không được
dùng để kỳ thị chủng tộc, màu da, nam nữ, tôn giáo, hay nguồn gốc xã hội.
2) Trong mọi trường
hợp những quyền dân sự và chính trị ghi trong các điều 6, 7, 8 ( khoản 1 và 2)
và trong các điều 11, 15, 16, 18 của Công Ước không thể bị đình chỉ thi hành.
3) Các quốc gia hội
viên ký kết Công Ước này phải lập tức thông báo qua vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp
Quốc cho các quốc gia hội viên kết ước khác hay biết những điều khoản nào trong
Công Ước bị đình chỉ thi hành và vì lý do gì. Ngay sau khi chấm dứt tình trạng
khẩn trương công cộng, họ cũng phải thông báo theo thủ tục nói trên.
Ðiều 5 :
1) Không một quốc
gia, một phe nhóm hay một cá nhân nào có quyền giải thích các điều khoảng trong
Công Ước này để cho phép họ hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu diệt
những quyền tự do đã được Công Ước thừa nhận, hoặt để giới hạn những quyền tự
do này quá mức ấn định trong Công Ước.
2) Các quốc gia hội
viên kết ước nào đã thừa nhận một số nhân quyền cơ bản trong luật pháp quốc
gia, công ước, quy chế hay tục lệ, sẽ không được quyền giới hạn hay đình chỉ
thi hành các nhân quyền cơ bản đó, viện cớ rằng Công Ước này không thừa nhận
những nhân quyền đó, hay chỉ thừa nhận trong một phạm vi hạn hẹp hơn.
Phần III
Ðiều 6 :
1) Mọi người đều có
quyền sống. Ðây là một quyền bẩm sinh được luật pháp bảo vệ. Không ai có thể bị
tước đoạt quyền sống một cách độc đoán.
2) Trong các quốc gia
chưa bãi bỏ hình phạt tử hình, tòa án chỉ được tuyên án tử hình với những tội
hình sự nghiêm trọng nhất chiếu theo luật pháp áp dụng trong thời gian phạm
pháp và không trái với những điều khoản của Công Ước này và của Công Ước Ngăn
Ngừa và Trừng Phạt Tội Diệt Chủng. Hình phạt tử hình chỉ có thể được thi hành
chiếu theo một bản án chung thẩm của một tòa án có thẩm quyền.
3) Ðiều luật này
không cho phép các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này được giải trừ các
nghĩa vụ ghi trong Công Ước Ngăn Ngừa và Trừng Phạt Tội Diệt Chủng trong trường
hợp sự hành quyết hay sát nhân cấu thành tội diệt chủng.
4) Các bị cáo bị
tuyên án tử hình có quyền xin ân xá hay ân giảm hình phạt. Lệnh đại xá, ân xá
hay ân giảm hình phạt có thể được ban hành trong mọi trường hợp.
5) Án tử hình không
được tuyên án đối với các bị cáo chưa đủ 18 tuổi khi phạm pháp, và cũng không
được thi hành đối với các phụ nữ mang thai.
6) Ðiều luật này
không thể được viện dẫn để trì hoãn hay ngăn cản việc bãi bỏ hình phạt tử hình
tại các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này.
Ðiều 7 : Không ai có thể bị tra tấn, hoặc phải chịu những hình
phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp phẩm giá con người. Ðặc biệt
là, nếu không có sự ưng thuận tự do của đương sự, không ai có thể bị dùng vào
những cuộc thí nghiệm y học hay khoa học.
Ðiều 8 :
1) Không ai có thể bị
bắt làm nô lệ; chế độ nô lệ và mọi hình thức buôn bán nô lệ đều bị cấm chỉ.
2) Không ai có thể bị
bắt làm nô dịch.
3)
a) Không ai có thể bị
cưỡng bách lao động.
b) Khoản 3(a) nói
trên không được áp dụng tại các quốc gia trong đó luật pháp cho phép tòa án có
thẩm quyền tuyên án khổ sai.
c) Trong phạm vi
khoản này, không được coi là “lao động cưỡng bách”:
i) Ngoài trường hợp
nêu ở khoản (b) trên đây, những công tác hay dịch vụ mà các tù nhân phải làm
trong thời gian bị giam giữ chiếu theo một bản án hợp pháp của tòa án, hay phải
làm trong thời gian được phóng thích có điều kiện.
ii) Nghĩa vụ quân sự,
hay nghĩa vụ quốc gia áp dụng cho những người được luật pháp cho miễn thi hành
nghĩa vụ quân sự vì lý do lương tâm.
iii) Nghĩa vụ cộng
đồng trong trường hợp khẩn trương hay thiên tai đe dọa đời sống hay sự an lạc
của cộng đồng.
iv) Nghĩa vụ dân sự
thông thường.
Ðiều 9 :
1) Ai cũng có quyền
tự do thân thể và an ninh thân thể. Không ai có thể bị bắt giữ hay giam cầm độc
đoán. Không ai có thể bị tước đoạt tự do thân thể ngoại trừ những trường hợp và
theo những thủ tục luật định.
2) Khi bị bắt giữ, bị
cáo phải được tức thì thông báo về lý do bắt giữ, và phải được thông báo không
chậm trễ về tội trạng bị cáo buộc.
3) Bị cáo bị bắt giữ
hay giam cầm về một tội hình sự phải được dẫn giải không chậm trễ tới một vị
thẩm phán (hay một viên chức có thẩm quyền tư pháp theo luật), để được xét xử
trong một thời hạn hợp lý hay được phóng thích. Theo thông lệ, không nhất thiết
phải câu lưu bị cáo trước ngày tòa xử. Tuy nhiên để bảo đảm sự hiện diện của bị
cáo trong phiên xử hay trong các giai đoạn thẩm vấn, và để thi hành bản án, nếu
cần, sự phóng thích tạm bị cáo đòi hỏi phải có bảo đảm.
4) Những người bị bắt
giữ hay giam cầm đều có quyền yêu cầu tòa án thụ lý không chậm trễ về tính hợp
pháp của sự giam giữ, và được phóng thích nếu sự giam giữ được xem là bất hợp
pháp.
5) Các nạn nhân trong
những vụ bắt giữ hay giam cầm bất hợp pháp có quyền khiếu tố đòi bồi thường
thiệt hại.
Ðiều 10 :
1) Những người mất tự
do vẫn phải được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm.
2)
a) Ngoại trừ những
trường hợp đặt biệt, các bị cáo chưa được xét xử phải được giam giữ cách biệt
với những người đã can án và phải được đối xử theo quy chế những người không
can án.
b) Các bị cáo thiếu
nhi phải được giam giữ cách biệt với người lớn và phải được xét xử trong thời
hạn sớm nhất.
c) Chế độ lao tù phải
đặt trọng tâm vào việc cải huấn tù nhân, tạo cho họ cơ hội cải hóa và hội nhập
vào đời sống xã hội. Các thiếu nhi phạm pháp phải được giam giữ cách biệt với
người lớn, và phải được đối xử tùy theo tuổi tác và tình trạng pháp lý của
chúng.
Ðiều 11 :
không ai có thể bị giam
giữ chỉ vì không có khả năng thi hàng một nghĩa vụ khế ước.
Ðiều 12 :
1) Những người cư trú
hợp pháp trong lãnh thổ một quốc gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa
chọn nơi cư trú trong lãnh thổ.
2) Mọi người đều được
quyền tự do rời khỏi một quốc gia, kể cả quốc gia của mình.
3) Những quyền tự do
ghi trên không thể bị giới hạn, ngoại trừ những trường hợp luật định vì nhu cầu
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý, hay
những quyền tự do của người khác, và nếu không trái với những quyền tự do khác
được thừa nhận trong Công Ước này.
4) Không ai có thể bị
tước đoạt quyền hồi hương một cách độc đoán.
Ðiều 13 :
Ngoại kiều cư trú hợp pháp
trong lãnh thổ các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này chỉ có thể bị trục
xuất do một quyết định hợp pháp. Trừ trường hợp có lý cưỡng thúc về an ninh
quốc gia, người bị trục xuất có quyền trình bày lý do để chống lại quyết định
trục xuất, và có quyền nhờ người biện hộ nạp đơn xin tái xét hồ sơ trục xuất
tại các cơ quan hay người đại diện cơ quan có thẩm quyền.
Ðiều 14 :
1) Mọi người đều bình
đẳng trước tòa án. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai
bởi một tòa án độc lập, vô tư và có thẩm quyền theo luật, để phán xử về những
tội trạng hình sự mà mình bị cáo buộc hay về những quyền lợi và nghĩa vụ của
mình trong các vụ tranh tụng khác. Báo chí và công chúng có thể không được tham
dự một phần hay toàn thể phiên xử, vì nhu cầu đạo lý, trật tự công cộng hay an
ninh quốc gia trong một xã hội dân chủ, hay dể bảo vệ đời sống riêng tư của các
đương sự tranh tụng, hay, trong những trường hợp thật cần thiết, khi tòa án
quyết định rằng xét xử công khai sẽ làm thiệt hại quyền lợi của công lý, tuy
nhiên các bản án hình sự và các bản án khác phải được tuyên đọc công khai trước
tòa, ngoại trừ trường hợp để bảo vệ quyền lợi của thiếu nhi hay của gia đình
trong những vụ tranh tụng về hôn nhân hay về việc giám hộ các con.
2) Bị cáo về các tội
hình sự có quyền được suy đoán là vô tội cho đến khi bị chứng minh là có tội
theo luật.
3) Trong các vụ hình
sự, tất cả các bị cáo đều được hưởng đồng đều những bảo đảm tối thiểu sau đây :
a) Ðược tức thì thông
báo tội trạng với đầy đủ chi tiết bằng ngôn ngữ mà họ thông hiểu.
b) Quyền có đủ thời
gian và phương tiện để chuẩn bị sự biện hộ và được quyền liên lạc với luật sư do
mình lựa chọn.
c) Ðược xét xử mau
chóng, không diên trì quá đáng.
d) Ðược hiện diện
trong phiên xử để tự biện hộ hay nhờ luật sư biện hộ do mình lựa chọn; được
thông báo về quyền này trong trường hợp tự biện hộ; và được quyền có luật sư
biện hộ miễn phí vì nhu cầu công lý nếu bị cáo không có phương tiện mướn luật
sư.
e) Ðược đối chất với
các nhân chứng buộc tội và được quyền đòi nhân chứng và chất vấn các nhân chứng
gỡ tội cho mình, theo cùng một thủ tục.
f) Ðược quyền có
thông dịch viên miễn phí, nếu bị cáo không nói hay không hiểu ngôn ngữ của tòa.
g) Ðược quyền không
khai, để khỏi phải tự buộc tội mình, hay khỏi phải thú nhận tội trạng.
4) Trong các vụ án
thiếu nhi, thủ tục xét xử phải căn cứ vào tuổi tác của các bị cáo và hướng về
mục tiêu cải huấn can phạm.
5) Các bị cáo bị
tuyên phạt có quyền kháng cáo lên tòa trên thủ tục luật định.
6) Trong trường hợp
bị cáo bị tuyên hình phạt chung thẩm và sau này bản án bị tiêu hủy hay đương sự
được ân xá vì có sự kiện mới phát giác cho biết bị cáo đã bị phạt oan uổng,
người bị kết án có quyền đòi bồi thường thiệt hại theo luật, trừ phi có bằng
chứng cho biết, sở dĩ sự kiện mới này không được phát giác trong thời gian xử
án, một phần hay hoàn toàn tại vì bị cáo.
7) Không ai có thể bị
tái thẩm hay bị tuyên phạt một lần nữa về một tội trạng đã được tòa án phán xử
chung thẩm bằng cách tuyên phạt hay tha bổng, chiếu theo luật pháp và thủ tục
hình sự hiện hành.
Ðiều 15 :
1) Không ai có thể bị
kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều
ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay quốc tế áp
dụng hồi đó; mà cũng không bị tuyên cáo một hình phạt nặng hơn hình phạt được
áp dụng trong thời gian phạm pháp. Tuy nhiên bị cáo được quyền hưởng hình phạt
khoan hồng hơn chiếu theo luật mới ban hành sau ngày phạm pháp.
2) Ðiều luật này
không có tác dụng ngăn cản việc xét xử hay tuyên phạt một bị cáo vì đã làm hay
không làm những hành vi cấu thành tội hình sự chiếu theo những nguyên tắc luật
pháp tổng quát được thừa nhận bởi cộng đồng các quốc gia trong thời gian đương
sự phạm pháp.
Ðiều 16 :
Ai cũng có quyền được công
nhận là con người trước pháp luật bất cứ tại đâu.
Ðiều 17 :
1) Không ai có thể bị
xâm phạm trái phép hay độc đoán vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xúc
phạm trái phép đến danh dự và thanh danh.
2) Ai cũng có quyền
được luật pháp bảo vệ chống lại những xâm phạm ấy.
Ðiều 18 :
1) Ai cũng có quyền
tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Quyền này bao gồm quyền tự
do theo một tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín
ngưỡng qua sự thờ phụng, hành đạo, nghi lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư hoặc
với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.
2) Không ai bị cưỡng
bách tước đoạt quyền tự do lựa chọn tôn giáo hay tín ngưỡng.
3) Quyền tự do biểu
thị tôn giáo hay tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu bảo vệ
an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý hay những
quyền tự do căn bản của người khác.
4) Các quốc gia hội
viên ký Công Ước này cam kết tôn trọng quyền của cha mẹ hay người giám hộ trong
việc giáo dục các con về tôn giáo hay đạo lý theo tín ngưỡng của họ.
Ðiều 19 :
1) Mọi người đều có
quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp.
2) Mọi người đều có
quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp
nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm,
dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể
biên giới quốc gia.
3) Việc hành sử quyền
tự do phát biểu quan điểm (ghi ở khoản 2 nói trên) đòi hỏi đương sự phải có
những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi
pháp luật vì nhu cầu:
a/ Tôn trọng những
quyền tự do và thanh danh của người khác.
b/ Bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý.
Ðiều 20 :
1) Mọi hình thức
tuyên truyền, cổ võ chiến tranh phải bị luật pháp cấm chỉ.
2) Mọi hình thức gieo
rắc căm hờn, xúi giục kỳ thị, hiềm khích, kích thích bạo động giữa các quốc gia
hay các tôn giáo phải bị luật pháp cấm chỉ.
Ðiều 21 : Quyền hội
họp có tính cách hòa bình phải được thừa nhận. Việc hành sử quyền này chỉ có
thể bị giới hạn bởi luật pháp, vì các nhu cầu cần thiết trong một xã hội dân
chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe
công cộng, đạo lý, hay những quyền tự do của người khác.
Ðiều 22 :
1) Ai cũng có quyền
tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ
quyền lợi của mình.
2) Việc hành sử quyền
này chỉ có thể bị giới hạn bởi luật pháp, vì các nhu cầu cần thiết trong một xã
hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn công cộng, trật tự công cộng,
sức khỏe công cộng, đạo lý, hay những quyền tự do của người khác. Ðiều luật này
không có tác dụng ngăn cấm việc ban hành các giới hạn luật định liên quan đến
sự hành sử quyền tự do lập hội của các giới quân nhân và cảnh sát.
3) Ðiều luật này
không có hiệu lực cho phép các quốc gia hội viên ký kết Công Ước Lao Ðộng Quốc
Tế năm 1948 về Quyền Tự Do Lập Hội và Bảo Vệ Quyền Lập Hội, được ban hành hay
áp dụng những đạo luật có tác dụng vi phạm những bảo đảm về những quyền tự do
ghi trong Công Ước Lao Ðộng Quốc Tế.
Ðiều 23 :
1) Gia đình là đơn vị
tự nhiên và căn bản trong xã hội và phải được xã hội và quốc gia bảo vệ.
2) Thanh niên nam nữ
đến tuổi thành hôn có quyền kết hôn và lập gia đình.
3) Hôn thú chỉ được
thành lập nếu có sự ưng thuận hoàn toàn tự do của những người kết hôn.
4) Các quốc gia hội
viên ký kết công ước này phải ban hành những biện pháp để bảo đảm sự bình đẳng
về quyền lợi và trách nhiệm của vợ chồng khi kết hôn, trong thời gian hôn thú,
cũng như khi ly hôn. Trong trườg hợp ly hôn phải quy định những biện pháp bảo
vệ quyền lợi của các con.
Ðiều 24 :
1) Không phân biệt
chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc quốc gia hay xã hội,
tài sản hay dòng dõi, các trẻ em, với tư cách vị thành niên, phải được gia
đình, xã hội và quốc gia bảo vệ.
2) Trẻ em phải được
khai sinh ngay sau khi sinh, và được đặt tên họ.
3) Trẻ em có quyền
thủ đắc quốc tịch.
Ðiều 25 :
1) Không bị kỳ thị
(như đã quy định ở điều 2) và không bị giới hạn bất hợp lý, mọi công dân đều có
quyền và có cơ hội :
a/ Ðược tham gia vào
việc điều hành chính quyền, hoặc trực tiếp hoặc qua những đại biểu do mình tự
do tuyển chọn.
b/ Ðược bầu cử và ứng
cử trong những cuộc tuyển cử tự do và công bằng theo định kỳ, bằng phổ thông
đầu phiếu kín, bảo đảm trung thực ý nguyện của cử tri.
c/ Ðược quyền bình
đẳng tham gia công vụ trong nước.
Ðiều 26 :
Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật, và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Trên phương
diện này, luật pháp cấm mọi kỳ thị và bảo đảm cho tất cả mọi người quyền được
bảo vệ một cách bình đẳng và hữu hiệu chống mọi kỳ thị về chủng tộc, màu da,
nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã
hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào.
Ðiều 27 : Ðối với các cộng đồng thiểu số về chủng tộc, tôn giáo,
hay ngôn ngữ tại các quốc gia hội viên, Công Ước này bảo đảm cho các thành phần
thiểu số cùng với những người khác trong cộng đồng của họ được quyền hưởng văn
hóa riêng, được truyền giáo và hành đạo riêng, và được sử dụng ngôn ngữ riêng
của họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét