HOÀNG ĐẾ NAPOLÉON BONAPARTE (1769 –
1821 )
Đối với các binh lính mà ông chỉ huy ngoài mặt trận, Napoléon được gọi bằng
một tên thân mến là “Viên Hạ Sĩ nhỏ bé” (the Little Corporal). Napoléon là một
vị tướng chỉ cao 1 thước 57 (5 ft 2 in.), chiều cao trung bình của một người dân
Pháp vào thời đại đó, ông thấp hơn các tướng lãnh dưới quyền và các chính khách
đương thời của châu Âu, nhưng Napoléon là một con người đầy nghị lực và rất
tham vọng: ông là một nhà cai trị xuất chúng, đã đồng thời kiểm soát hệ thống
chính trị, chính sách đối ngoại, các công việc đối nội, ngành báo chí của toàn
thể nước Pháp. Napoléon đã nghĩ ra rất nhiều cải cách hữu ích kể cả việc thiết
lập nên một chính quyền trung ương vững mạnh, hữu hiệu, đã duyệt xét lại và tổ
chức lại hệ thống luật pháp của nước Pháp thành bộ luật hữu lý. Nhiều công
trình cải tiến hành chính của Napoléon vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay trong
các cơ chế chính quyền của nước Pháp và tại các quốc gia theo ảnh hưởng và văn
minh Pháp.
Napoléon đã tự phong làm Hoàng Đế của nước Pháp và đã tạo ra một đế quốc
trải rộng khắp miền tây và miền trung của châu Âu. Hoàng Đế Napoléon đã là chủ
nhân của toàn thể châu Âu trong 16 năm: ông đã khéo léo sử dụng các người dưới
quyền có khả năng và đã tưởng thưởng họ bằng các huy chương, cấp bậc, tài sản
và các danh hiệu quý tộc. Napoléon đã trực tiếp điều khiển các trận chiến vĩ
đại và rất phức tạp, điều này chứng tỏ ông là một thiên tài quân sự, có lẽ vĩ
đại bậc nhất trong Lịch Sử của Nhân Loại.
1- Thuở thiếu thời của Napoléon Bonaparte.
Napoléon sinh ngày 15-8-1769 tại Ajaccio, trên hòn đảo Corsica không bao
lâu sau khi hòn đảo này được chính quyền Genoa bán cho nước Pháp. Napoléon là
người con thứ tư trong gia đình 8 người con và là con trai thứ hai của ông
Carlo Buonaparte và bà Letizia Ramolino. Ông Carlo là một luật sư, có dòng dõi
quý tộc của xứ Tuscan và dòng họ này đã di cư và sống trên đảo Corsica vào thế
kỷ 16. Ông Carlo đã cưới bà Letizia, một thiếu nữ 14 tuổi trẻ đẹp và là người
có ý chí mạnh. Họ đã phải nuôi dưỡng 8 người con trong một hoàn cảnh eo hẹp về
tài chính. Khi người Pháp chiếm đóng đảo Corsica thì một số người dân địa
phương đã nổi lên chống lại chính quyền Pháp, thủ lãnh là ông Paoquale Paoli.
Ông Carlo Buonaparte đã tham gia vào đảng phái của ông Paoli nhưng khi ông thủ
lãnh này bỏ trốn, ông Carlo đã hợp tác với người Pháp. Nhờ sự bảo trợ của vị
thống đốc đảo Corsica, ông Carlo được bổ nhiệm năm 1771 làm phụ thẩm (assessor)
của khu vực tư pháp Ajaccio. Năm 1778, ông Carlo đã xin được phép cho 2 con
trai lớn là Joseph và Napoléon theo học trường trung học d’Autun (College
d’Autun).
Với nguồn gốc đảo Corsica và tên theo tiếng Ý là Napoleone Buonaparte,
Napoléon là một đứa trẻ ngoại quốc có tình tình địa phương, rất ghét người Pháp
là lớp người bị dân chúng coi là kẻ áp chế. Khi lên 9 tuổi, Napoléon được cha
gửi theo học trường quân sự tại Brienne-le-Chateau, một tỉnh nhỏ gần Troyes.
Napoléon là một thiếu niên nhạy cảm, cô đơn, thường bị các bạn cùng lớp bắt
nạt. Sự tàn nhẫn của các bạn học đã khiến cho Napoléon thu mình vào các mơ mộng
về vinh quanh cá nhân và chiến thắng quân sự. Napoléon là một học sinh trung
bình về phần lớn các môn học nhưng lại xuất sắc về Toán Học. Năm 1784, Napoléon
được chọn lựa vào Học Viện Quân Sự Paris, theo binh chủng Pháo Binh. Trong thời
gian Napoléon theo học tại thành phố Paris thì người cha qua đời vì bị ung thư
bao tử vào tháng 2 năm 1785, để lại một gia đình sống trong hoàn cảnh eo hẹp.
Tháng 9 năm đó, Napoléon tốt nghiệp Học Viện Quân Sự với cấp bậc Thiếu Úy, xếp
hạng 42 trong số 58 tân sĩ quan. Sau đó, Napoléon phục vụ tại Trung Đoàn Pháo
Binh Le Fère, trú đóng tại Valence. Đây là trường huấn luyện các sĩ quan Pháo
Binh trẻ. Napoléon tiếp tục học hỏi bằng cách tìm đọc rất nhiều sách vở về
chiến thuật và chiến lược, đọc các tác phẩm của Voltaire và Rousseau, và cũng
đã tập viết văn, đúc kết lại thành “Các bức thư về Đảo Corsica” (Lettres sur la
Corse) trong đó mô tả các cảm tình của mình đối với nơi sinh trưởng. Tháng
9-1786, Napoléon trở lại đảo Corsica và đã không tham gian vào Trung Đoàn Pháo
Binh cho tới tháng 6-1788. Vào giai đoạn này, toàn thể nước Pháp đang sôi động
vì các biến cố chính trị và cuộc Cách Mạng Pháp sắp sửa bùng nổ. Napoléon tin
tưởng rằng chắc chắn sẽ có cuộc thay đổi chính trị tại nước Pháp.
2- Thời kỳ Cách Mạng Pháp.
Vào năm 1789, các nhà cách mạng Pháp đã hội họp tại Paris để thành lập nên
Quốc Hội và chế độ quân chủ lập hiến, họ đã cho phép ông Pasquale Paoli trở về
đảo Corsica và vào tháng 9 năm đó, Napoléon cũng quay về nghỉ tại đảo này. Tại
quê hương, Napoléon muốn tham gia vào phong trào của ông Paoli nhưng vị lãnh tụ
của phong trào chính trị địa phương này đã không tin tưởng chàng thanh niên
Napoléon vì người cha, ông Carlo, đã không trung thành với lý tưởng tranh đấu
cho địa phương. Do bị gạt ra khỏi nhóm đấu tranh và bị thất vọng, Napoléon trở
lại nước Pháp và vào tháng 4-1791, được bổ nhiệm làm Trung Úy tại Trung Đoàn
Pháo Binh thứ 4, đóng tại Valence. Chính tại nơi này, Napoléon đã tham gia vào
Câu Lạc Bộ Jacobin, một hội chính trị cấp tiến, lúc đầu chủ trương một nước
cộng hòa dân chủ. Napoléon đã trở nên chủ tịch của câu lạc bộ và trong các lần
phát biểu, thường công kích các nhà quý tộc, các giám mục và các thầy tu.
Tháng 9 năm 1791, Napoléon xin nghỉ phép và trở về sống tại đảo Corsica
trong 3 tháng, và trong thời gian này, ông đã phục vụ trong quân đội địa phương
của đảo (the Corsican National Guard). Sự tham gia vào câu lạc bộ Jacobin và
khuynh hướng chính trị cấp tiến của Napoléon đã gây nên sự bất hòa giữa
Napoléon và ông Paoli, một người bảo hoàng. Sau khi cuộc Cách Mạng Pháp xẩy ra
và Vua Louis 16 bị hành quyết vào tháng 1-1793, thì ông Paoli với chủ trương
tách đảo Corsica ra khỏi nước Pháp, đã tuyên bố Napoléon là kẻ bị đặt ra ngoài
vòng pháp luật. Các người trong gia đình Buonaparte đành phải rời khỏi hòn đảo,
chạy qua đất Pháp. Napoléon trở về phục vụ trong Quân Đội Pháp và đóng tại
thành phố Paris.
Dưới chế độ quân chủ Bourbon, Napoléon có rất ít hy vọng được thăng cấp
nhưng khi cuộc Cách Mạng Pháp lên cao độ vào ngày 10-8-1792 với chế độ quân chủ
đã bị lật đổ và một nước Cộng Hòa được thành lập, thì đây là cơ hội rất tốt, có
tính quyết định đối với cuộc đời của Napoléon và đã mở ra để Napoléon tiến lên
đài vinh quang. Vào thời gian này, phần lớn các sĩ quan cao cấp của quân đội
Pháp vẫn còn trung thành với nhà Vua nhưng Napoléon lại xét đoán thời cuộc theo
một đường hướng khác. Nước Cộng Hòa Pháp hiện đang phải đối đầu với cuộc nội
chiến và các cuộc chiến tranh với các nước lân bang. Nền Cộng Hòa đang rất cần
các sĩ quan có khả năng và trung thành với chế độ mới.
Năm 1792, Napoléon mang cấp bậc Đại úy rồi phục vụ tại Nice vào tháng
6-1793. Vào thời gian này, Napoléon đã viết một bài báo, có tên là “Souper de
Beaucaire” qua đó ông kêu gọi các người cộng hòa phải đoàn kết chung quanh nhóm
Jacobin, là những người càng ngày càng trở nên cấp tiến hơn. Tới cuối tháng
8-1793, đạo quân của Hội Nghị Quốc Ước đã chiếm được thành phố Marseille nhưng
đã bị chặn lại tại thành phố Toulon là căn cứ của các kẻ bảo hoàng, những người
này đang kêu gọi sự trợ giúp của quân đội Anh. Trong một trận đánh tại Toulon,
do vị chỉ huy Pháo Binh của đạo quân cách mạng bị thương và cũng do lời đề nghị
của ủy viên chính trị Antoine Saliceti là một người đảo Corsica và là bạn với
gia đình, Napoléon được đề nghị giữ chức chỉ huy trưởng Trung Đoàn Pháo Binh,
được thăng cấp bậc Thiếu Tá vào tháng 9 và tham dự vào công cuộc vây hãm thành
phố Toulon. Chính tại nơi này, Napoléon đã bộc lộ khả năng của một vị tướng tài
và một nhà lãnh đạo uy dũng.
Vào tháng 12-1793, Napoléon ra lệnh đặt các khẩu đại bác ở trên cao, hướng
về hải cảng Toulon và bắn vào các tầu chiến Anh, vì vậy hạm đội Anh phải rút
lui và quân Cách Mạng Pháp đã chiến thắng tại Toulon. Do chiếm được thành phố
này, Napoléon được phong chức Thiếu Tướng (Brigadier General) lúc mới 24 tuổi.
Augustin de Robespierre, ủy viên chính trị của Quân Đội Cách Mạng Pháp, đã phải
gửi cho người anh là Maximilien Robespierre khi đó là người đứng đầu chính
quyền Pháp và là một trong các nhà lãnh đạo của thời kỳ khủng bố, một bức thư
ca tụng “công lao ưu việt” của viên sĩ quan trẻ Napoléon Bonaparte, thuộc đảng
Cộng Hòa. Napoléon đã thành công vì biết áp dụng khéo léo một kỹ thuật quân sự
mới là Pháo Binh vào chiến tranh.
Tháng 2-1974, Napoléon được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng lực lượng Pháo Binh
của đội quân Pháp trú đóng tại nước Ý, nhưng khi Maximilien Robespierre bị
truất quyền vào ngày 9 tháng Thermidor (27-7-1794) thì Napoléon liền bị bắt về
tội âm mưu và phản bội, vì đã là người được Robespierre che chở. Napoléon được
trả lại tự do vào tháng 9 nhưng không được phục hồi quyền chỉ huy. Vào tháng 3
năm sau, Napoléon được đề nghị chức vụ chỉ huy lực lượng Pháo Binh miền Tây để
chống lại lực lượng phản cách mạng tại miền Vendée nhưng ông đã từ chối vì cho
là không có tương lai. Napoléon trở về Paris.
Cuộc sống tại thành phố Paris đối với Napoléon đã không dễ chịu, nhất là
khi ông lại liên quan tình cảm với nàng Desirée Clary, con gái của một thương
gia giàu có thuộc miền Marseille và là em của chị dâu Julie, người đã lấy anh
Joseph. Napoléon đã không thể xin được một chức vụ nào vì nhiều nhà chính trị
thời đó e ngại sự liên kết của Napoléon với nhóm “Montagnard” là những nhân vật
cấp tiến của Hội Nghị Quốc Ước, họ cũng e ngại các tham vọng của Napoléon. Vì
tài năng không được sử dụng, Napoléon dự định đi xa phục vụ cho việc canh tân
quân đội của quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ.
3- Thời kỳ Hội Đồng Chấp Chính.
Vào tháng 5 năm 1795, khi Napoléon đang sống tại thành phố Paris thì Hội
Nghị Quốc Ước đưa ra trưng cầu dân ý bản hiến pháp mới của năm thứ ba thuộc Nền
Cộng Hòa Thứ Nhất, cùng với các đạo luật theo đó hai phần ba nhân viên của Hội
Nghị Quốc Ước sẽ được bầu lại vào các hội nghị lập pháp mới. Cũng vào giai đoạn
này, các người bảo hoàng muốn tái lập chế độ quân chủ, nên đã xúi giục dân
chúng Paris nổi loạn, khiến cho cuộc trưng cầu dân ý không thể thực hiện được.
Lúc bấy giờ, Tử Tước Paul de Barras là người được Hội Nghị Quốc Ước giao cho
các quyền lực, đã không tin cậy vào vị chỉ huy quân đội của Bộ Nội Vụ và do
được biết tới chiến thắng của Napoléon tại Toulon, nên đã chỉ định Napoléon làm
chỉ huy phó. Ngày 13 tháng Vendemaire năm thứ 4, tức là ngày 5-10-1795, khi đám
đông biểu tình rầm rộ trước Điện Tulleries, Napoléon đã hạ lệnh đặt các khẩu
đại bác và bắn thẳng vào đám người biểu tình. Hàng trăm người chết và bị
thương. Đường phố Paris nhờ vậy sớm trở lại yên tĩnh. Napoléon đã cứu được Hội
Nghị Quốc Ước và chế độ Cộng Hòa, và rồi trở thành chỉ huy trưởng của quân đội
thuộc Bộ Nội Vụ, nhờ đó biết được tất cả các tiến triển chính trị tại thành phố
Paris. Napoléon được phong Trung Tướng và cũng là vị cố vấn quân sự cho chính
phủ mới, là Hội Đồng Chấp Chính (The Directory) với Paul de Barras là một trong
năm nhân vật điều khiển Hội Đồng này. Chính vào thời gian này, Napoléon đã làm
quen với góa phụ của Tướng Alexandre de Beauharnais, một người đã chết trên
đoạn đầu đài trong thời kỳ khủng bố. Bà góa phụ này hơn Napoléon 6 tuổi, tên là
Josephine Tascher de la Pagerie, là một người gốc gác thuộc hòn đảo Martinique
miền Tây Ấn, có hai con và nhiều mối tình với vài nhân vật danh giá.
Cũng vào thời gian này, Napoléon đã tỏ ra trung thành với Hội Đồng Chấp
Chính nhờ công lao giải tán một nhóm người Cộng Sản chủ trương do Francois
Babeuf và Filippo Buonarroti, một người Ý mà Napoléon đã quen biết từ đảo
Corsica.
Vào tháng 3 năm 1796, Napoléon được cử làm Tư Lệnh đạo quân Pháp tại Ý Đại
Lợi, chỉ huy một chiến dịch mà Hội Đồng Chấp Chính trù liệu rằng Napoléon sẽ
ngăn chặn đạo quân Áo đóng tại nước Ý trong khi các đạo quân Pháp lớn hơn sẽ
băng qua nước Đức để đánh vào thành phố Vienna là thủ đô của nước Áo. Napoléon
đã cưới Josephine de Beauharnais rồi 2 ngày sau, lên đường qua nước Ý, nhận
chức vụ. Khi tới Bộ Chỉ Huy quân đội Pháp đóng tại Nice, ông thấy rằng đội quân
này, với quân số 43,000 người nhưng thực ra chỉ có 30,000 binh lính vừa thiếu
ăn, vừa thiếu mặc, thiếu trang bị và không được trả lương đầy đủ. Ngày 28 tháng
3 năm 1796, Napoléon đã nói trước quân đội: “Hỡi các binh sĩ, các người trơ
trụi, thiếu ăn. Các tỉnh giàu có và các đô thị to lớn sẽ ở trong quyền lực của
các người và tại các nơi đó, các người sẽ tìm thấy danh dự, vinh quang và tài
sản. Hỡi các binh sĩ của miền Ý Đại Lợi, các người cần phải có can đảm và cương
quyết”.
Ngày 12 tháng 4 năm đó, Napoléon đã đánh bại đạo quân Áo, chia cắt lực
lượng này với đạo quân Sardina rồi tiến vào thành phố Turin. Vua của xứ Sardina
là Victor Amadeus III phải xin đình chiến rồi sau Hiệp Ước Hòa Bình tại Paris
vào ngày 15-5, hai xứ Nice và Savoy do người Pháp chiếm từ năm 1762, được sát
nhập vào nước Pháp. Vào thời gian này, có một kế hoạch cải biến nước Ý theo chế
độ cộng hòa do một số nhà ái quốc người Ý, lãnh đạo do Buonarroti, nhưng ông
này đã bị bắt cùng với Babeuf vì chống lại Hội Đồng Chấp Chính. Trước hoàn cảnh
chính trị của nước Ý, Napoléon đã cho lập nên một chế độ cộng hòa tại Lombardi
nhưng vẫn cho theo dõi các nhà lãnh tụ Ý, và vào tháng 10 năm 1796, Napoléon đã
dựng nên nước Cộng Hòa Cisalpine bằng cách phối hợp xứ Modena và Reggio nell’
Emilia với các miền đất thuộc Giáo Hoàng là Bologna và Ferrara đang do quân đội
Pháp chiếm đóng.
Khi lực lượng Pháp do Napoléon chỉ huy bao vây Mantua, các đoàn quân của
nước Áo đã bốn lần vượt qua rặng núi Alps để tiếp cứu Mantua nhưng quân Áo đã
bị Napoléon đánh bại. Tháng 1 năm 1797, đoàn quân Áo phải đầu hàng tại Rivoli
và thành trì Mantua thất thủ. Sau đó, Napoléon đưa quân tiến tới Vienna. Khi
còn cách thủ đô nước Áo 100 cây số, người Áo đã xin đình chiến. Nước Áo bằng
lòng nhường miền nam của xứ Hòa Lan cho nước Pháp và công nhận Cộng Hòa
Lombardy thuộc về nước Pháp. Napoléon lo việc củng cố các chế độ cộng hòa tại
miền bắc nước Ý là Cộng Hòa Ligurian (Genoa) và Cộng Hòa Cisalpine. Một số nhà
ái quốc người Ý vào lúc này đã hy vọng rằng những phát triển chính trị này sẽ
dẫn tới việc thành lập một quốc gia cộng hòa Ý theo kiểu mẫu của nước Pháp.
Các chiến dịch tại nước Ý do Napoléon điều khiển đã chứng tỏ thiên tài quân
sự của ông, và cũng tại nước Ý, Napoléon đã làm phát triển một chiến thuật quân
sự rất thành công, dùng làm căn bản cho các trận đánh lớn về sau. Napoléon đã
dùng bộ óc bén nhậy của mình để quan sát các địa thế, hiểu rõ các chi tiết địa
hình nào sẽ làm cản trở việc tiến quân. Ông sớm đoán trước được các kế hoạch
của kẻ địch. Khi bắt đầu vào trận chiến, Napoléon đã để dự trữ một lực lượng
lớn, quan sát rõ ràng mặt trận và tìm ra điểm yếu nhất của lực lượng địch, dồn
sức mạnh quân sự vào điểm đó, chia hai lực lượng địch rồi vào thời điểm quyết
định, dùng lực lượng dự trữ hùng hậu, thanh toán ngay một nửa địch quân và kẻ
địch đã phải kinh hoàng trước sức tấn công bất ngờ như vũ bão. Napoléon
Bonaparte là vị danh tướng có một khả năng đặc biệt, đó là nhận ra được thời
điểm tốt nhất để tấn công. Bằng chiến thuật này, trong 11 ngày của năm 1796,
Napoléon đã đánh bại đội quân Sardina đông gấp 5 lần. Napoléon đã theo đúng
“nguyên tắc chia và chinh phục” (the principle of divide and conquer).
Napoléon còn tỏ ra có thiên tài về tâm lý và tuyên truyền. Ông đã nói trước
hàng quân : “Trong hai tuần lễ, các người đã đạt được 6 chiến thắng. Các người
đã bắt 15,000 tù binh. Các người đã giết chết hay làm bị thương 10,000 địch
quân. Thiếu thốn đủ thứ, các người đã hoàn thành mọi nhiệm vụ. Các người đã
chiến thắng mà không có đại bác, vượt qua sông mà không có cầu, tiến bước mà
không có giầy, đóng quân mà không có rượu mạnh, và thường không có cả bánh mì.
Chỉ có các đoàn quân của nước Cộng Hòa, chỉ có các người lính của Tự Do mới có
khả năng chịu đựng những thiếu thốn mà các người đang phải chịu đựng. . . Tất
cả các người đang náo nức mang vinh quang về cho dân tộc Pháp, làm khiêm nhường
các vị vua kiêu căng dám xiềng xích chúng ta. Các người hãy trở về làng mạc của
các người và nói một cách hãnh diện rằng “ta đã ở trong đoàn quân chinh phục Ý
Đại Lợi” “
Vào mùa xuân năm 1797, các người bảo hoàng đã thành công trong cuộc bầu cử tại
nước Pháp khiến cho Napoléon khuyên Hội Đồng Chấp Chính hãy cản trở họ và nếu
cần thì dùng sức mạnh. Tới tháng 7 năm đó xẩy ra một cuộc đảo chính chống lại
phe bảo hoàng, nhưng thất bại. Vì vậy Napoléon đã phái tướng Pierre Augereau về
Paris. Cùng với một số sĩ quan và binh lính, cuộc đảo chính của tướng Augereau
vào ngày 18 tháng Fructidor (4 tháng 9-1797) thành công, đã loại bỏ các người
bảo hoàng khỏi chính phủ và khỏi các hội đồng lập pháp và đồng thời, cũng làm
tăng uy tín của Napoléon.
Trong chưa đầy một năm, Napoléon đã chiến thắng 14 trận lớn và hơn 70 trận
nhỏ. Đội quân của ông đã chinh phục các miền giàu có và những nơi này đã phải
nuôi ăn và đóng góp cho quân đội Pháp. Hàng triệu quan tiền được gửi về nước
Pháp để làm giảm nhẹ các gánh nặng tài chính của chính phủ trung ương. Vào
tháng 10 năm 1797, nước Pháp và nước Áo đã ký kết Hòa Ước Campo Formio nhờ đó
lãnh thổ Pháp được mở rộng. Napoléon trở về Paris và được đón mừng như một vị
anh hùng. Napoléon Bonaparte đã mang lại vinh quang cho nước Pháp sau 5 năm
chiến tranh trên lục địa của châu Âu.
4- Xâm lăng Ai Cập.
Sau khi đã chiến thắng được nước Áo và trở về Paris, Napoléon mang nhiều
tham vọng lớn nhưng ông thấy chưa có đủ ảnh hưởng tác động tới chính quyền
trung ương. Vào thời bấy giờ, tất cả các nước trên lục địa châu Âu đều phải quy
phục nước Pháp, ngoại trừ nước Anh.
Vào cuối năm 1797, Hội Đồng Chấp Chính muốn thực hiện một cuộc đổ bộ qua
nước Anh nên đã chỉ định Napoléon chỉ huy công cuộc viễn chinh qua eo biển
Manche. Sau một cuộc thanh tra ngắn hạn vào tháng 2 năm 1798, Napoléon tuyên bố
rằng cuộc xâm chiếm nước Anh chỉ thực hiện được sau khi nước Pháp làm chủ được
mặt biển và ông đã đề nghị nên đánh phá các nguồn tài nguyên của nước Anh bằng
cách chiếm đóng xứ Ai Cập và như vậy, đe dọa con đường dẫn tới Ấn Độ. Napoléon
muốn bắt chước lối chinh phục của Đại Đế Alexander bằng cách chiếm đoạt đế quốc
phía đông gồm Ai Cập, Ấn Độ, các miền đất Trung Đông và Viễn Đông. Đề nghị của
Napoléon được vị Bộ Trưởng Ngoại Giao là ông Talleyrand ủng hộ và được các nhân
vật lãnh đạo Hội Đồng Chấp Chính chấp thuận ngay, vì chính các vị này cũng đang
muốn đẩy đi xa vị tướng trẻ nhiều tham vọng là Napoléon Bonaparte.
Vào tháng 5 năm 1798, Napoléon bắt đầu cuộc viễn chinh tại Ai Cập với
38,000 quân. Các chiến thắng bắt đầu: pháo đài Malta của các hiệp sĩ
Hospitallers (the Knights Hospitallers of St. John of Jerusalem) bị thất thủ
vào ngày 10-6-1798, rồi thành phố Alexandria của Ai Cập đầu hàng vào ngày 1
tháng 7. Napoléon đã đánh bại các kẻ cai trị xứ Ai Cập có tên là nhóm
Mamelukes, trong trận đánh tại các Kim Tự Tháp gần thành phố Cairo. Rồi đồng
bằng sông Nile bị chinh phục rất nhanh chóng. Nhưng, vào ngày 1-8-1798, hạm đội
Pháp bỏ neo tại Vịnh Abu Qir đã bị hoàn toàn phá hủy bởi hạm đội Anh của Đô Đốc
Horatio Nelson trong trận thủy chiến “Dòng Sông Nile” (the Battle of the Nile)
khiến cho đoàn quân Pháp bị mắc kẹt trong miền đất mà họ đã chinh phục được và
bị cắt đứt các nguồn tăng cường và tiếp tế. Cũng vào thời gian này, Napoléon đã
cố gắng đưa vào xứ Ai Cập các định chế chính trị, cách quản trị và tài năng kỹ
thuật của tây phương. Quốc gia bảo hộ Ai Cập là Thổ Nhĩ Kỳ bèn liên minh với
các nước Anh, nước Nga và tuyên chiến với nước Pháp vào tháng 9 năm đó. Để ngăn
chặn cuộc tấn công của Thổ Nhĩ Kỳ vào xứ Ai Cập và có lẽ cũng vì muốn trở về
đất Pháp bằng con đường Anatolia, Napoléon đã đưa quân qua Syria vào tháng 2
năm 1799, tiến tới pháo đài Acre (ngày nay là Akko, thuộc nước Do Thái) và đoàn
quân Pháp đã bị chặn đánh thảm bại tại nơi này. Napoléon đành phải rút về Ai
Cập và khi tới Abu Qir, gần Vịnh Abu Qir, ông đã đánh thắng 10,000 quân Thổ Nhĩ
Kỳ vào tháng 7 năm 1799.
Trận đánh “Dòng Sông Nile” đã cho người châu Âu thấy rằng Napoléon
Bonaparte không phải là vô địch và các nước Anh, Áo, Nga, Thổ đã họp thành một
liên minh quân sự mới, chống lại nước Pháp. Từ mùa xuân năm 1799, quân đội Pháp
bị thua nhiều trận tại nước Ý và đã phải rút lui khỏi phần lớn bán đảo Ý Đại
Lợi. Những thất bại quân sự này đã gây nên các xáo trộn trong nước Pháp. Ngày
30 tháng Prairial (18-6-1799), một cuộc đảo chính đã loại ra ngoài Hội Đồng
Chấp Chính các nhân vật ôn hòa và đưa vô Hội Đồng này các đảng viên Jacobin, là
các người cực đoan. Nhưng hoàn cảnh chính trị vẫn không ổn định. Một trong các
nhân vật lãnh đạo Hội Đồng Chấp Chính là ông Emmanuel Sieyès đã tin chắc rằng
chỉ có chế độ độc tài quân sự mới ngăn ngừa được việc phục hưng chế độ quân
chủ. Ông Sieyès tuyên bố: “Tôi đang tìm kiếm một cây gươm”. Hội Đồng Chấp Chính
đã ra lệnh cho Napoléon trở về đất Pháp.
Tình hình chính trị tại nước Pháp vào lúc này rất thuận tiện cho Napoléon.
Việc phục hồi nhóm đảng viên Jacobin khiến cho các kẻ ôn hòa lo ngại sẽ xẩy ra
một thời kỳ khủng bố mới, họ trông đợi một chính quyền mạnh, ngăn chặn được
khuynh hướng cấp tiến này. Cũng vào thời gian này, Hội Đồng Chấp Chính đã thiết
lập nên 4 nước cộng hòa vệ tinh là các xứ Batavian (Hòa Lan), Helvetian (Thụy
Sĩ), Roman (La Mã) và Parthenopean (Naples). Các nhà lãnh đạo nước Áo, hay dòng
họ Hapsburg, vì thế rất lo ngại ảnh hưởng của nước Pháp tại các miền đất Ý
thuộc nước Áo trước kia, và Sa Hoàng Paul I (trị vì 1796-1801) lo sợ Napoléon
sẽ làm hư hại các quyền lợi của nước Nga tại vùng Địa Trung Hải. Đế Quốc Pháp
mới mẻ đã làm lệch đi sự thăng bằng chính trị của châu Âu nên các nước Anh, Áo
và Nga đã lập nên liên minh quân sự thứ hai và trong năm 1799, quân đội Nga dưới
quyền của Tướng Alexander Suvorov (1729-1800) đã nhiều lần đánh bại quân đội
Pháp và Tướng Suvorov trở nên vị anh hùng của châu Âu. Vào tháng 8 năm 1799,
quân Pháp bị đẩy ra khỏi lãnh thổ Ý và phần lớn các nước cộng hòa Pháp bị sụp
đổ. Chính vào lúc này, lãnh thổ Pháp đang đứng trước nguy cơ bị xâm lăng. Có
nhiều âm mưu phản cách mạng. Chế độ Cộng Hòa đang cần cấp cứu. Tháng 8 năm
1799, Napoléon Bonaparte lên tầu, lẻn về Pháp, giao quyền chỉ huy đoàn quân Ai
Cập cho Tướng Jean Kleber.
5- Tổng Tài Thứ Nhất của nước Pháp.
Cùng với một số người thân tín, Napoléon rời Ai Cập vào ngày 22-8-1799 bằng
hai con tầu nhỏ và rất may, họ về tới đất Pháp an toàn, tránh được vòng phong
tỏa của Hải Quân Anh. Napoléon tới Paris vào ngày 14 tháng 10 năm đó. Tin tức
về chiến thắng tại Abu Qir đã khiến cho nhân dân Pháp hân hoan đón mừng sự trở
về của người anh hùng trẻ tuổi Napoléon. Cũng vào lúc này, quân đội Pháp đã
thắng lớn tại Hòa Lan và Thụy Sĩ, tránh được cảnh nước Pháp bị xâm lăng đồng
thời các lực lượng phản cách mạng trong nước cũng bị thất bại. Nước Cộng Hòa
Pháp đã được cứu vãn nhưng ông Sieyès vẫn muốn tiếp tục kế hoạch cũ: lưỡi gươm
Napoléon đã tới với ông.
Vào cuối tháng 10 năm 1799, Sieyès và Napoléon đã thực hiện một cuộc đảo
chính vào hai ngày 18 và 19 tháng Brumaire, năm thứ 8 của Lịch Cách Mạng, tức
là ngày 9-10 tháng 11 năm 1799. Kết quả của cuộc đảo chính này là các hội đồng
lập pháp bị giải tán, các đại biểu đối lập bị loại bỏ, một chính quyền mới được
thành lập với ba tổng tài (consul) là Napoléon, Sieyès và Pierre Robert Ducos.
Một hiến pháp mới đã được nhân dân Pháp chấp thuận, theo đó Napoléon được bầu
làm “Tổng Tài Thứ Nhất” (first consul) còn hai vị tổng tài kia chỉ làm cố vấn
cho Napoléon. Sau 10 năm cách mạng với các xáo trộn phức tạp, nhân dân Pháp
mong muốn có một vị lãnh đạo mạnh, nhờ vậy vào lúc này, Napoléon có thể cai trị
nước Pháp như một nhà độc tài. Napoléon Bonaparte đã là chủ nhân của cả nước
Pháp.
Khi lên cầm quyền “Tổng Tài Thứ Nhất”, Napoléon mới 30 tuổi, là một con
người lùn và gầy, với mái tóc cắt sát nên được gọi là “le petit tondu” (chàng
thanh niên nhỏ người có mái tóc cắt sát). Người dân Pháp vào thời gian này
không biết rõ về cá nhân của Napoléon, họ đặt tin tưởng vào một nhân vật luôn
luôn chiến thắng vì Napoléon là một chính trị gia khôn khéo, đã che dấu hai lần
thất bại tại Dòng Sông Nile và tại pháo đài Acre. Người dân Pháp vẫn còn ghi
nhớ Hòa Ước Campo Formio, mang lại danh dự về cho nước Pháp. Người dân Pháp
trông đợi Napoléon sẽ chấm dứt hệ thống chính quyền tham nhũng và không ổn định
của Hội Đồng Chấp Chính, củng cố các thành quả chính trị và xã hội của Cách
Mạng, cứu nguy và mang lại Hòa Bình cho xứ sở.
Napoléon Bonaparte quả thực là một nhân vật thông minh xuất chúng. Ông hiểu
biết rất rõ về lịch sử và luật pháp cũng như khoa học quân sự. Ông làm việc
không biết mệt, quyết định rất nhanh chóng và có nhiều tham vọng không giới
hạn. Napoléon chính là con người của Cách Mạng Pháp bởi vì chính nhờ cuộc Cách
Mạng này mà ông sớm bước chân lên địa vị cao sang và quyền lực bậc nhất của
quốc gia. Napoléon Bonaparte lại là con người của thế kỷ 19, người con đích
thực của Voltaire, là nhà chuyên chế được khai sáng nhất (the most enlightened
despot) của các nhà độc tài chuyên chế: ông không tin tưởng vào chủ quyền của
nhân dân, vào các tranh đấu đại nghị, vào các ý muốn của toàn dân. Napoléon đặt
tin tưởng vào lý luận (reasoning) hơn là lý trí (reason), cho rằng các ý muốn
dù được khai sáng (enlightened) hay cương quyết tới đâu cũng cần đến sự yểm trợ
của lưỡi lê (the support of bayonets). Napoléon đã coi thường dư luận và tin
rằng ông có thể hướng dẫn hay bóp méo dư luận theo ý mình. Napoléon Bonaparte
được người dân Pháp gọi là vị tướng có tính “dân sự” nhất (the most “civilian”
of generals) nhưng mãi mãi ông vẫn là một quân nhân.
Từ khi lên làm Tổng Tài Thứ Nhất, Napoléon đã áp đặt chế độ độc tài quân sự
lên toàn thể nước Pháp và thực chất của đặc tính này nằm trong Hiến Pháp của
năm thứ 8 (4 Nivose, 25-12-1799) do Sieyès thảo ra. Hiến Pháp này không đề cập
gì tới các nguyên tắc “tự do, bình đẳng và huynh đệ” của cuộc Cách Mạng Pháp,
không bảo đảm “dân quyền” (the rights of man) mà lại ban cho vị Tổng Tài Thứ
Nhất các quyền lực vô hạn. Napoléon Bonaparte với danh nghĩa Tổng Tài này, có
thể chỉ định các bộ trưởng, quan tòa, tướng tá, nhân viên Hội Đồng Quốc Gia,
công chức, và cả các nhân viên của hội đồng lập pháp mà theo lý thuyết, những
vị này phải được bầu lên do phổ thông đầu phiếu. Sau một cuộc trưng cầu dân ý
vào tháng 2 năm 1800, Hiến Pháp năm thứ 8 đã được chấp thuận.
Các chương trình cải tổ của Napoléon bắt đầu. Đứng đầu chính quyền là Hội
Đồng Quốc Gia (the Council of State), gồm các chuyên viên tạo nên một Nội Các
trung ương, chủ tọa do Napoléon và chỉ chịu trách nhiệm trước Napoléon. Các xáo
trộn về quản trị hành chánh trong thời kỳ Cách Mạng đã được sửa đổi. Một nhóm
các bộ sở được thành lập để thi hành việc kiểm soát từ trung ương, chẳng hạn
như Bộ Tài Chính lo về thuế vụ, Bộ Nội Vụ lo an ninh trong xứ. Lãnh thổ được
chia thành nhiều tỉnh (departements), tổng (cantons), làng (communes), nhưng
các nhân viên hành chánh đều do trung ương bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước
chính quyền Paris. Việc tập trung về trung ương của nền tài chính cũng được
thực hiện do việc thiết lập ra Ngân Hàng Pháp Quốc (the Bank of France) trong
đó 200 cổ đông chính, tạo nên Hội Đồng Quản Trị, là các nhà trí thức tư sản của
thành phố Paris. Hệ thống huân chương được quy định với Bắc Đẩu Bội Tinh (the
Legion of Honor) là bậc cao cấp nhất. Ngành Tư Pháp cũng bị thay đổi đáng kể do
việc phổ biến Đạo Luật Napoléon (the Code Napoléon), làm tiêu hủy các luật lệ
khác nhau thuộc các tỉnh khác nhau của nước Pháp, tạo nên một hệ thống luật
pháp thống nhất, không đặt căn cứ trên các điều lệ đã có từ trước mà trên lý
trí (reason). Đạo luật này công nhận mọi người bình đẳng trước Pháp Luật bất kể
cấp bậc hay tài sản, nhưng đã đặt quyền lợi của Quốc Gia lên trên quyền lợi của
Cá Nhân. Bộ Luật Napoléon đã là một kiểu mẫu cho các nhà cải tổ Luật Pháp trên
toàn thế giới. Các quan tòa từ nay không còn được bầu lên từ các địa phương như
trong thời kỳ Cách Mạng, mà được bổ nhiệm từ trung ương. Tổ chức cảnh sát cũng
được tăng cường. Nền Giáo Dục được cải tiến thành một dịch vụ công cộng chính
yếu, giáo dục trung học mang tính cách bán quân sự, các Đại Học có ban giảng
huấn được tổ chức lại. Napoléon cũng lập ra Đại Học Pháp Quốc (the University
of France) nhưng ngành giáo dục tiểu học còn bị thiếu sót.
Napoléon cũng đồng ý với quan điểm của Voltaire theo đó người dân cần tới
một tôn giáo, dù cho cá nhân của ông không quan tâm đến niềm tin tôn giáo. Giáo
Hoàng Pius VII vào tháng 3 năm 1800, đã ký kết với Napoléon một bản điều ước
(concordat) công nhận Nền Cộng Hòa Pháp, chấp nhận quốc gia có quyền bổ nhiệm
giới tu sĩ (the clergy). Tổ chức quân đội được Tổng Tài Napoléon chú ý tới
nhiều nhất: chế độ quân dịch cưỡng bách được thi hành nhưng trong đó cũng chấp
nhận sự thay thế trong việc tòng quân, các lính quân dịch mới được pha trộn với
các binh lính thiện chiến cũ và mọi người lính đều có cơ hội được thăng chức
lên các cấp bậc cao nhất. Hàn Lâm Viện Quân Sự Saint Cyr được thành lập, mở cửa
đón nhận các thanh niên thuộc các gia đình tư sản theo đuổi binh nghiệp. Ngoài
ra, Trường Đại Học Bách Khoa lập nên do Hội Nghị Quốc Ước trước kia, nay được
quân sự hóa để đào tạo ra các sĩ quan Pháo Binh và Công Binh.
Như vậy, Napoléon Bonaparte đã kết hợp toàn thể nước Pháp vào cách kiểm
soát của chính quyền trung ương và đây là một di sản lâu dài nhất. Napoléon đã
tự cho mình là người thừa kế và bảo vệ công cuộc Cách Mạng Pháp. Đối với giai
cấp trung lưu, ông đã làm ổn định nền tài chính, tổ chức lại nền hành chính và
xã hội cho có trật tự, lập ra các chương trình xây dựng đường lộ và sông đào.
Lợi tức quốc gia được phục hồi bằng các thứ thuế trực thu và gián thu và nhờ
vậy, đồng “franc” có giá trị ổn định. Đối với nông dân, đất đai của họ được bảo
đảm, các loại thuế phong kiến mà người dân phải đóng nạp đã bị Luật Pháp mới
chấm dứt. Giới lao động cũng có công việc làm ăn do các nhu cầu của quân đội và
của một xã hội đang cải tiến. Napoléon cũng bảo đảm cho mọi người dân quyền
bình đẳng trước Pháp Luật, bình đẳng về các cơ hội thăng tiến, các hình phạt
tàn ác bị tiêu hủy và nền giáo dục được mở ra cho những người thông minh, hiếu
học. Và trước mọi người dân trong nước, Napoléon Bonaparte đã hứa hẹn không chỉ
nền an ninh quốc gia mà còn có phương cách bành trướng lãnh thổ và sự vinh
quang quân sự.
Tổng Tài Thứ Nhất Napoléon Bonaparte đã không vừa lòng với việc cai trị
lãnh thổ nước Pháp mà còn muốn bành trướng ảnh hưởng Pháp ra khắp các xứ Tây
Phương khác. Mùa đông năm 1799 và mùa xuân năm 1800, Napoléon lo luyện tập quân
đội để chuẩn bị tấn công nước Áo vì vào thời gian này, nước Nga đã rút lui khỏi
liên minh chống Pháp. Napoléon nhận thấy ngay địa điểm chiến lược là liên bang
Thụy Sĩ vì từ nơi này, ông có thể đánh vào sườn các đoàn quân Áo đóng tại nước
Đức hay nước Ý. Kinh nghiệm trước kia đã khiến ông chọn nước Ý. Napoléon đưa
quân qua đường đèo St. Bernard trước khi tuyết tan, bao vây quân đội Áo tại
Genoa. Trận đánh Marengo của Napoléon đã khiến quân Pháp kiểm soát được thung
lũng sông Po, tới tận Adige rồi vào tháng 12-1800, một đoàn quân Pháp khác cũng
đã đánh bại quân đội Áo tại nước Đức. Nước Áo bị bắt buộc phải ký Hòa Ước
Luneville vào tháng 2 năm 1801, công nhận nước Pháp có quyền chiếm đóng các
miền sông Rhine, dãy núi Alps và dãy núi Pyrenées.
Tới lúc này, chỉ còn nước Anh là quốc gia duy nhất chống lại Napoléon. Các
thương thảo hòa bình giữa Anh và Pháp được bắt đầu tại London vào tháng 10-1801
rồi Hiệp Ước Hòa Bình được ký kết tại Amiens vào ngày 27-3-1802. Châu Âu từ nay
có hòa bình được vãn hồi. Uy tín của Tổng Tài Thứ Nhất Napoléon Bonaparte tăng
lên rất cao.
Vào năm 1802, Napoléon khuyên các nhà lập pháp rằng để có đủ yếu tố ổn
định, giới hạn 10 năm của Tổng Tài Thứ Nhất nên được loại bỏ, và vào tháng
5-1802, đã có quyết định để dân chúng Pháp tham dự một cuộc trưng cầu dân ý
theo đó “Napoléon Bonaparte có nên làm Tổng Tài suốt đời hay không?”. Vào tháng
8 năm đó, nhân dân Pháp đã chấp thuận Napoléon làm Tổng Tài “suốt đời”, với
quyền chỉ định người kế nghiệp và tùy ý tu chính Hiến Pháp.
Vào đầu thế kỷ 19, nước Anh muốn lật đổ Napoléon nên đã trợ giúp cho các người
Pháp bảo hoàng để họ tiếp tục thực hiện các rối loạn và âm mưu. Khi một cuộc âm
mưu do người Anh trợ giúp bị khám phá vào năm 1804, Napoléon cho rằng cần phải
phản ứng thật mạnh để làm cho các kẻ chống đối phải khiếp sợ. Trong cuộc âm mưu
kể trên, cảnh sát Pháp đã tin rằng người đứng đầu là hầu tước trẻ tuổi d’
Enghien, một biểu tượng của dòng họ Bourbon và ông này đang sinh sống cách biên
giới Đức vài dậm đường. Rồi do sự chấp thuận của Talleyrand và của Cảnh Sát
Trưởng Joseph Fouché, vị hầu tước trẻ bị bắt cóc trên miền đất trung lập, bị
đưa về Vincennes , bị xét xử và bị bắn chết. Hành động này đã làm tăng uy tín
của ông Fouché nhưng cũng khiến cho giới quý tộc cũ thêm bất mãn và chống đối.
Cũng vì muốn củng cố địa vị, Cảnh Sát Trưởng Fouché đã khuyên Napoléon rằng
để tránh các âm mưu lật đổ, nên đổi chế độ “Tổng Tài suốt đời” thành thể chế
“đế quốc” (empire) có thừa kế và như thế, các kẻ chống đối không còn hy vọng
thay đổi chế độ bằng phương cách ám sát. Vào ngày 28 tháng 5 năm 1804, Đế Chế
được công bố thành hình mặc dù không có thay đổi nhiều trong cách tổ chức chính
quyền của nước Pháp, ngoài một số cơ chế tương tự như đế chế cũ. Đầu tiên,
Napoléon muốn được phong chức bởi Giáo Hoàng nhờ đó, việc đăng quang sẽ gây ra
nhiều ấn tượng tốt đẹp đối với dân chúng Pháp và các quốc gia khác, và đặc biệt
mang tính cách chính thức hơn cả các nhà vua Pháp. Giáo Hoàng Pius VII cũng
đồng ý tới Paris và trong buổi lễ đăng quang rực rỡ tổ chức vào ngày 2 tháng 12
năm 1804 tại Giáo Đường Notre Dame, Paris, Hoàng Đế Napoléon Bonaparte đã nhận
vương niệm từ tay Giáo Hoàng và theo gương của Charlemagne, Napoléon đã tự đặt
vương niệm đó lên đầu mình. Từ nay, là “Hoàng Đế của nước Pháp”, Napoléon
Bonaparte có quyền truyền lại ngai vàng cho các con cháu. Các người trong gia
đình Bonaparte đã mang các danh xưng quý tộc. Việc phục hồi chế độ quân chủ
chuyên chế là một điều lăng nhục đối với các người bảo hoàng và đối với các cựu
chiến sĩ của Cuộc Cách Mạng Pháp. Để dẹp tan các phản kháng, Napoléon đã tăng
cường công việc tuyên truyền, báo chí bị kiểm duyệt gắt gao. Chế độ độc tài
quân chủ này đã cho phép Napoléon thực hiện các cuộc chiến tranh trong nhiều
năm mà không cần quan tâm tới dư luận quần chúng Pháp. Tại phần đất Ý Đại Lợi,
Napoléon Bonaparte đã lãnh đạo nước Cộng Hòa Cisalpine từ khi nước này được
thành lập, vì thế vào tháng 3 năm 1805, Napoléon Bonaparte được công bố trở
thành Vua của nước Ý và đã lên ngai vàng vào tháng 5 năm đó tại Milan.
Napoléon Bonaparte là một nhà chính trị khôn khéo. Mỗi lần muốn thay đổi
Hiến Pháp theo chiều hướng thiếu dân chủ, ông đều dùng tới phương pháp trưng
cầu dân ý và kết quả thu được rất có lợi cho Napoléon: cuộc bỏ phiếu năm
1799-1800 chấp thuận Napoléon và Hiến Pháp của Năm Thứ 8 có 3,011,107 phiếu
thuận đối với 1,562 phiếu chống; rồi vào năm 1803, 3,568,885 phiếu thuận, đồng
ý để Napoléon làm Tổng Tài suốt đời so với 8,357 phiếu chống; còn cuộc bỏ phiếu
đồng ý Đế Chế đã mang lại kết quả là 3,572,329 phiếu thuận, trong khi phiếu
chống là 2,579. Chắc chắn là các cử tri Pháp vào thời kỳ đó đã bị các áp lực
chính trị và các kết quả công bố có phần bị sửa đổi, nhưng không còn nghi ngờ
gì khi đại đa số dân chúng Pháp đã ủng hộ Napoléon. Các vinh quang quân sự do
Napoléon mang lại đã hấp dẫn những người có tinh thần quốc gia đang lên, và các
chính sách ổn định kinh tế quốc nội đã khiến cho mọi người dân không còn muốn
các biến động cách mạng hay các thay đổi chính quyền, bởi vì Napoléon đã làm
thay đổi một số chính sách cách mạng cũ và thêm vào các cải tổ theo những nhận
xét của các nhà tư tưởng mới. Nhờ các cải tiến chính sách, niềm tin của dân
chúng Pháp đã tăng lên từ dưới, và quyền lực đã phát triển từ trên.
Từ nay tại nước Pháp, mọi người với quá trình chính trị khác nhau đều được
đặt vào nền hành chính đế chế có tính trung ương tập quyền, giống như dưới
triều đại của Vua Louis 14. Napoléon là một nhà chuyên chế khai sáng
(enlightened despot). Napoléon chỉ quan tâm đến khả năng của những kẻ dưới
quyền, dù cho trước kia họ là cựu đảng viên Jacobin hay là các người di cư. Đế
chế này đã đặt căn bản trên một nền móng chính trị rộng rãi. Napoléon đã tưởng
thưởng trọng hậu các kẻ có công, kể cả bằng các tước hiệu cao cấp. Do việc tái
lập đế chế, đã có hàng chục hầu tước, hàng trăm bá tước và công tước. Napoléon
đã phong cho các tướng lãnh và sĩ quan xuất sắc cấp bậc “Thống Chế” (marshal)
và tưởng thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh (Legion of Honor) và với huy chương này, họ
được tiền trợ cấp hàng năm. Napoléon đã nhận xét rằng “chế độ quý tộc luôn luôn
tồn tại” (aristocracy always exists), và khi bị phá bỏ thì chế độ đó đã chuyển
về các gia đình trung lưu giàu sang và có thế lực. Như vậy, những người đứng
đầu giai cấp trung lưu Pháp của thời đại đó đã dần dần trở nên các nhà quý tộc
hoàng gia.
6- Napoléon và các trận chiến 1800-1807.
Đối với nhiều người Pháp, Napoléon Bonaparte là con người của Định Mệnh
(the Man of Destiny), là nhà cai trị xuất sắc nhất trong lịch sử của nước Pháp.
Nhưng đối với các người khác của châu Âu, Napoléon lại là kẻ thù của các nền
độc lập quốc gia. Các chinh phục quân sự của Napoléon đã khiến cho nhiều miền
đất tự do khác phải quy phục nước Pháp, vì thế Napoléon bị gọi là “con người ảm
đạm trên lưng ngựa” (the Sinister Man on Horseback), một kẻ độc tài đế quốc với
tham vọng không bao giờ thỏa mãn. Các oán hận của các quốc gia và của người dân
châu Âu khác đã dần dần làm lung lay đế quốc của Napoléon Bonaparte.
Vào năm 1800, Sa Hoàng Paul của nước Nga đã thiết lập nên Liên Minh Baltic
của các quốc gia trung lập (the Baltic League of Armed Neutrality) kết hợp các
nước Phổ, Đan Mạch, Thụy Điển và Nga, để chống lại nước Anh. Sa Hoàng Paul còn
muốn hợp tác với nước Pháp để đẩy người Anh ra khỏi vùng đất Ấn Độ. Nhưng kế
hoạch kể trên đã bị sụp đổ khi Sa Hoàng Paul bị ám sát, kế nghiệp là Sa Hoàng
Alexander I. Cũng vào mùa xuân năm 1800 này, Napoléon Bonaparte đã đưa quân
vượt qua dãy núi Alps, đánh bại quân đội Áo trên miền đất Ý và qua Hiệp Ước
Luneville (1801), nước Áo phải công nhận nước Ý thuộc quyền của người Pháp và
để Napoléon vẽ lại bản đồ của nước Đức.
Sau Hiệp Ước Luneville, chỉ còn nước Anh đối đầu với nước Pháp. Nước Anh đã
chiếm được các thuộc địa của Hòa Lan và Tây Ban Nha và hạm đội Anh của Đô Đốc
Nelson đã đẩy được người Pháp ra khỏi xứ Ai Cập. Năm 1802, Hòa Ước Hòa Bình
Amiens được ký kết, đã chỉ mang lại sự tạm thời đình chiến trong một năm vì sau
đó, Napoléon đang mưu toan thành lập một đế quốc thuộc địa tại hòn đảo Haiti và
vùng đất Louisiana thuộc Bắc Mỹ mà nước Tây Ban Nha đã nhường lại cho nước Pháp
vào năm 1800.
Tại xứ Haiti, đa số người da đen địa phương đã vui mừng khi Hội Nghị Quốc
Ước hủy bỏ chế độ nô lệ, nhưng khi các Tổng Tài đặt lại chế độ bất công kể trên
tại xứ Haiti thì Francois Toussaint L’ Ouverture (c. 1744-1803) và Jean Jacques
Dessalines (c. 1758-1806) đã cầm đầu các cuộc nổi dậy chống lại người Pháp. Thêm
vào đó, bệnh sốt vàng da đã gây tổn thất lớn lao cho quân đội viễn chinh Pháp,
khiến cho Napoléon phải bỏ dở kế hoạch chinh phục Mỹ Châu. Năm 1803, Napoléon
đã bán miền đất Louisiana cho Hoa Kỳ với giá 80 triệu quan tiền.
Từ năm 1803 tới năm 1805, chỉ còn nước Anh là miền đất Napoléon Bonaparte
phải chinh phục và muốn vậy, người Pháp phải đổ bộ lên đất Anh và ngược lại,
người Anh muốn đánh bại Napoléon thì phải lập nên một liên minh trên lục địa
châu Âu. Vào thời gian này, Napoléon bắt đầu chuẩn bị công cuộc xâm lăng nước
Anh trên một quy mô rộng lớn. Gần 2,000 con tầu chiến Pháp được thu về các hải
cảng nằm giữa quân cảng Brest và thành phố Antwerp trong khi đó, Đại Quân Pháp
tập trung tại Boulogne. Nhưng khó khăn vẫn là làm sao vượt qua được eo biển Channel
và muốn vậy, người Pháp phải làm chủ được mặt biển.
Do Hải Quân Pháp còn thua kém Hải Quân Anh, hạm đội Pháp cần tới sự giúp đỡ
của Hải Quân Tây Ban Nha nhưng dù vậy, hai hạm đội này cũng chỉ có thể đánh bại
một hạm đội Anh. Vào tháng 12 năm 1804, đã có quyết định theo đó các hạm đội
Pháp và Tây Ban Nha sẽ tập trung tại quần đảo Antilles để nhử cho hạm đội Anh
tới đó mà tiêu diệt rồi về sau, trận đánh trên biển Channel mới có hy vọng
chiến thắng. Theo kế hoạch, hạm đội Pháp do Đô Đốc Pierre de Villeneuve từ Địa
Trung Hải đã tới quần đảo Antilles nhưng không thấy hạm đội Tây Ban Nha, rồi
hạm đội Pháp bị hạm đội của Đô Đốc Nelson săn đuổi. Đô Đốc De Villeneuve phải
cho đoàn tầu chạy về châu Âu, trú ẩn tại hải cảng Cadiz thuộc nước Tây Ban Nha
vào tháng 7-1805 rồi tại đó, bị hạm đội Anh bao vây. Bị Napoléon cho là hèn
nhát, De Villeneuve đành phải phá vòng vây và dù với sự trợ giúp của một hạm
đội Tây Ban Nha, hạm đội Pháp đã bị Hải Quân Anh tấn công bên ngoài hải cảng
Trafalgar vào ngày 21-10-1805. Mặc dù Đô Đốc Nelson bị tử thương trong trận hải
chiến này nhưng hai hạm đội Pháp và Tây Ban Nha đã bị hoàn toàn phá hủy. Chiến
thắng của Hải Quân Anh có tính quyết định, đã chấm dứt mọi hy vọng xâm lăng các
hải đảo Anh Cát Lợi của Napoléon và cho phép người Anh làm chủ được mặt biển.
Trước khi trận Trafalgar xẩy ra, ba nước Anh, Áo và Nga đã lập nên Liên
Minh thứ ba chống lại nước Pháp, do sự vận động của Thủ Tướng William Pitt
trong khi đó, Napoléon muốn vẽ lại bản đồ của nước Đức bằng cách dẹp bỏ hàng
trăm thành phố và các vương quốc nhỏ để tạo ra các xứ miền nam, đặt dưới quyền
cai trị của nước Pháp.
Ngày 24-7-1805, Napoléon Bonaparte đã ra lệnh chuyển Đại Quân từ Boulogne
qua miền sông Danube và trong trận đánh tại Ulm vào tháng 10 năm đó, Napoléon
đã bắt được 30,000 tù binh người Áo. Hầu Tước người Áo Ferdinand chạy thoát với
một toán kỵ binh nhỏ. Ngày 13-11, Napoléon tiến vào Vienna. Ngày 02 tháng 12
năm 1805, Napoléon Bonaparte đã kín đáo và với tốc độ chuyển quân thần tốc, đem
lực lượng tăng cường đánh bất ngờ vào đạo quân liên hợp Áo-Nga tại làng
Austerlitz, gây nên thiệt hại cho địch quân là 27,000 người, so với 9,000 người
tổn thất của Pháp. Sau trận đánh lừng danh này, trên lục địa châu Âu đã lan
truyền lời nói của Napoléon : “Ta đã đánh bại đạo quân Nga và Áo do hai Hoàng
Đế chỉ huy”.
Trong vòng một tháng, Napoléon Bonaparte đã ép buộc Hoàng Đế Hapsburg là
Francis I phải ký Hòa Ước Pressburg theo đó nước Áo chấp nhận mất hết ảnh hưởng
tại nước Ý và nhường 2 miền Venetia và Dalmatia cho Napoléon, cũng như bằng
lòng để người Pháp cai quản các xứ Bavaria, Wurttemberg và Baden. Sau đó, ngai
vàng của dòng họ Bourbons tại vương quốc Naples đã được dành cho người anh của
Napoléon là Joseph. Vào tháng 7 năm 1806, Liên Bang Sông Rhine được thành lập,
bao gồm tất cả miền tây nước Đức và được đặt dưới quyền bảo hộ của người Pháp.
Tháng 9 năm 1806, nước Phổ gây chiến với nước Pháp và vào ngày 14 tháng 10
năm đó, các đạo quân Phổ đã bị Napoléon đánh bại tại Jena và Auerstadt. Năm
1807, khi tiến quân vào thành phố Warsaw, Napoléon đã gặp bà Bá Tước Marie
Walewska, một người Ba Lan yêu nước, muốn kết hôn với Napoléon để nhờ đó quốc
gia Ba Lan được tái lập. Napoléon đã có với bà Walewska một đứa con.
Như vậy trên lục địa châu Âu chỉ còn một quốc gia chống đối Napoléon là
nước Nga. Tại Eylau, quân đội Nga đã cầm cự được với đạo quân của Napoléon vào
tháng 2-1807 nhưng rồi vào tháng 6 năm đó, đã phải bỏ chạy trước quân đội Pháp
sau trận đánh Friedland.
Sau các lần liên minh quân sự với nước Anh, Sa Hoàng Alexander I của nước
Nga đã cảm thấy mệt mỏi và chán nản, nên đã hẹn gặp Napoléon trên một cái bè
thả nổi trên dòng sông Niemen tại Tilsit, một nơi biên giới giữa hai xứ Nga và
Đông Phổ. Hai hoàng đế Pháp và Nga đã ký một thỏa ước chia đôi châu Âu và tạo
nên lãnh địa hầu tước Warsaw (Grand Duchy of Warsaw) từ các tỉnh Ba Lan được
tách ra khỏi nước Phổ và lãnh địa này được Napoléon giao cho một nước đồng minh
của Pháp cai quản, đó là Vua xứ Saxony. Lãnh thổ của nước Phổ nằm ở phía tây
dòng sông Elbe thuộc quyền Napoléon và Napoléon có quyền đóng quân trên đất Phổ
cũng như giới hạn quân số của nước này là 42,000 người.
Napoléon Bonaparte đã đoạt được hàng loạt chiến thắng quân sự nhờ thiên tài
cầm quân của ông, nhờ các tướng lãnh tài giỏi và tinh thần chiến đấu anh dũng
của quân sĩ dưới quyền, và cũng nhờ các lỗi lầm, sơ sót của địch quân. Từ nay,
quân đội Pháp là lực lượng đáng sợ nhất và tiến bộ nhất của châu Âu. Đạo quân
này có những lính mới do chế độ quân dịch, với quân số mới vào khoảng 85,000
người mỗi năm và các tân binh được bổ sung vào các đoàn quân tinh nhuệ cũ để
đáp ứng nhu cầu chiến trường. Các sĩ quan Pháp dưới thời Napoléon được thăng
cấp trên căn bản khả năng hơn là thâm niên hay thế lực, và các cấp chỉ huy này
quan tâm tới tinh thần chiến đấu của binh sĩ hơn là lo áp dụng kỷ luật nghiêm
ngặt. Về phần quyết định trận đánh, Napoléon Bonaparte chỉ ra lệnh tấn công khi
lực lượng Pháp mạnh hơn hoặc bằng với lực lượng địch, và vào thời điểm tấn công
thì dùng yếu tố bất ngờ như vũ bão, như trong trận Austerlitz.
Vào đầu thế kỷ 19, quân đội Pháp có vẻ như vô địch nhưng thật ra, vẫn có
các khuyết điểm. Dịch vụ y tế tại mặt trận rất yếu kém khiến cho nhiều người
lính bị chết vì bệnh dịch, vì các vết thương không được chăm sóc cẩn thận.
Lương bổng trả cho người lính còn thấp và không đều đặn, việc tiếp liệu thất
thường, người và ngựa phải sống nhờ trên các miền đất bị chiếm đóng để tiết
kiệm các chi phí và không lệ thuộc nhiều vào các đoàn xe tiếp tế.
Từ nay, toàn thể châu Âu được coi như chia ra làm ba phần: thứ nhất là Đế
Quốc Pháp, bao gồm nước Pháp và các miền đất sát nhập kể từ năm 1789, thứ hai
là các xứ vệ tinh của Pháp, cai trị bởi những người họ hàng của Napoléon, và
các quốc gia bị bắt buộc theo Pháp do thua trận, gồm các nước Áo, Phổ và Nga,
và thứ ba là ba nước Anh, Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ, nằm bên ngoài hệ thống cai
trị của Napoléon. Vào năm 1810, Bá Tước Bernadotte là một thống chế của
Napoléon, đã được người dân Thụy Điển mời làm vua của xứ họ, thay thế cho vị
vua không có con nối dõi ngai vàng. Và về sau, chính Tướng Bernadotte đã chủ
trương các chính sách của Thụy Điển chống lại Napoléon.
Tại miền trung của châu Âu, Napoléon đã ban ra các đạo luật giải tán một số
xứ chư hầu Đức, rồi tới năm 1806, Đế Quốc Thần Thánh La Mã (the Holy Roman
Empire) bị giải thể. Vị hoàng đế cuối cùng của Đế Quốc Thần Thánh La Mã là
Francis I, thuộc dòng họ Hapsburg, nay trở thành hoàng đế của nước Áo. Napoléon
đã tạo ra Liên Bang Sông Rhine (the Confederation of the Rhine) bao gồm các
miền đất bên ngoài nước Phổ và nước Áo.
Đế quốc Pháp của Napoléon Bonaparte đã mỗi năm một mở rộng và Napoléon đã
không do dự khi chỉ định các người trong dòng họ lên ngai vàng tại các xứ sở
rải rác của châu Âu. Năm 1806, người em trai Louis Napoléon lên làm Vua xứ Hòa
Lan. Anh Joseph Napoléon, sau hai năm làm Vua vương quốc Naples, nay được chỉ
định làm Vua xứ Tây Ban Nha từ năm 1808. Người em Jerome làm Vua xứ Westphalie
mới được thành lập năm 1807, còn các người em khác cũng không bị bỏ quên. Em
gái Caroline, người kết hôn với Thống Chế Joachim Murat, đã thay thế anh
Joseph, lên ngai vàng tại Naples vào năm 1808, còn một người em gái khác là Elisa,
có chồng là ông hoàng Lucca, được phong Nữ Bá Tước (grand duchess) miền Tuscany
năm 1809. Ngoài ra, người con riêng của bà Beauharnais là Eugène de Beauharnais
được giữ chức Phó Vương của vương quốc Ý Đại Lợi.
Napoléon Bonaparte cũng nghĩ tới người con nối dõi. Bà Josephine bị ly dị
sau cuộc hôn nhân 15 năm không con và vào năm 1810, Napoléon đã kết hôn với
công chúa Marie Louise, con gái của Vua Francis I, thuộc dòng họ Hapsburg. Bà
Marie Louise này đã có với Napoléon một đứa con trai, được gọi là “Vua La Mã”
(the king of Rome) nhưng về sau, đứa bé này đã không hề làm vua xứ sở nào cả.
7- Đế Quốc Pháp sụp đổ.
7- Đế Quốc Pháp sụp đổ.
Chủ nghĩa đế quốc của Napoléon đã thể hiện rõ ràng qua “Hệ Thống Lục Địa”
(the Continental System). Đây là chương trình muốn điều hành nền kinh tế của
toàn thể châu Âu bằng các mục tiêu chính trị, kinh tế và quân sự, và qua một
chính sách làm sao xây dựng nền xuất cảng của nước Pháp và làm tê liệt nền kinh
tế của nước Anh. Dưới ảnh hưởng của Pháp là các nước Đan Mạch, Na Uy, Phổ và đế
quốc Áo. 42 triệu người dân đã nằm dưới quyền hành của Napoléon Bonaparte. Bên
ngoài ảnh hưởng của Hoàng Đế Napoléon là các nước Anh, Nga, Thụy Điển và Thổ
Nhĩ Kỳ. Để triệt tiêu nước Anh, Napoléon đã ký đạo luật Berlin năm 1806, cấm
đoán mọi mậu dịch với các hải đảo Anh và hạ lệnh bắt giữ mọi tầu biển Anh cũng
như tịch thu các tài sản, hàng hóa của người Anh. Nước Anh đã phản ứng lại bằng
cách bắt buộc các tầu biển trung lập phải trả thuế tại các hải cảng Anh trước
khi chở hàng qua nước Pháp.
Vào tháng 12 năm 1807, đạo luật Milan của Napoléon lại ra lệnh bắt giữ mọi
tầu thuyền trung lập tuân theo chính sách của nước Anh và như vậy, các nước
trung lập bị đẩy vào thế kẹt ở giữa. Kết quả của hai đạo luật kể trên của
Napoléon đã tạo nên một loại phong tỏa lục địa châu Âu. Chính sách “nước Pháp
là ưu tiên một” (France first) đã gặp thất bại nặng nề. Chỉ một số kỹ nghệ của
nước Pháp hưởng lợi qua “Hệ Thống Lục Địa”, như việc cấm nhập cảng đường ăn từ
các quần đảo Tây Ấn, đã làm phát triển củ cải đường (sugar beet). Ngược lại, nền
ngoại thương của nước Pháp với các quốc gia bên ngoài bị suy sụp. Thành phố
Bordeaux và các hải cảng nằm trên Địa Trung Hải trở nên tiêu điều, các nguyên
liệu bị khan hiếm chẳng hạn như bông gòn. Nạn thất nghiệp, phá sản và buôn lậu
gia tăng, nhất là tại xứ Hòa Lan, giá trị xuất cảng ra các thị trường hải ngoại
của nước Pháp bị giảm đi hơn một phần ba giữa các năm 1805 và 1813.
Mặt khác, Hệ Thống Lục Địa đã không làm sụp đổ nước Anh dù cho người dân
Anh đã phải chịu đựng nhiều thiếu thốn: thực phẩm nhập cảng giảm, vật giá gia
tăng, tiền tệ cung cấp không đủ cho sức cầu. Nhưng nước Anh đã vượt qua được
các khó khăn nhờ các cải cách kinh tế, nhờ sự vượt trội về Hải Quân và Hàng Hải
Thương Thuyền, nhờ các thị trường mới, phong phú hơn được mở ra tại châu Mỹ, tại
đế quốc Ottoman và tại châu Á, và cũng nhờ ngành buôn lậu vào lục địa châu Âu.
Nước Pháp của Napoléon vào thời kỳ này đã thiếu đi một lực lượng hải quân đủ
mạnh để bắt giữ các kẻ buôn lậu, thiếu thốn các đội ngũ nhân viên quan thuế
trong sạch điều hành các hải cảng và trong khi đó, quân đội Pháp lại rất cần
một số mặt hàng sản xuất từ các cơ xưởng của nước Anh, chẳng hạn các quân trang
bằng da và bằng vải.
Hệ Thống Lục Địa của Napoléon đã tạo ra các hậu quả xấu về chính trị, kinh
tế và quân sự khi vào năm 1807, Hoàng Đế Napoléon áp đặt các chính sách của
mình lên nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Sau thời Cách Mạng Pháp, các tư tưởng
dân chủ của người Pháp, các tinh thần quốc gia của các xứ tại châu Âu đã khiến
cho người dân châu Âu dần dần nổi lên chống lại sự đô hộ của Napoléon.
Vào năm 1808, Napoléon đã lật đổ dòng họ Bourbons của Tây Ban Nha và thay
vào bằng người anh Joseph làm vua xứ này. Việc áp đặt chế độ quân chủ xa lạ và
Hệ Thống Lục Địa lên nước Tây Ban Nha, việc hủy bỏ các đặc quyền của giới quý tộc
và tu sĩ địa phương, đã là các vi phạm vào các phong tục, tập quán và niềm hãnh
diện của người dân Tây Ban Nha, vì vậy một cuộc nổi loạn đã xẩy ra vào ngày
2-5-1808 tại Madrid.
Cuộc nổi dậy Madrid của người dân Tây Ban Nha đã bị dập tắt một cách tàn
nhẫn nhưng từ nay cũng bắt đầu cuộc Chiến Tranh Bán Đảo (the Peninsular War),
gọi tên theo bán đảo Iberian. Các quân du kích Tây Ban Nha đã phục kích quân
đội Pháp, dùng thuốc độc bỏ vô các giếng nước, cũng như các cách đánh lén khác.
Quân du kích Tây Ban Nha còn được trợ giúp bởi quân đội Anh, lãnh đạo do Sir
Arthur Wellesley (1769-1852), người mà sau này là Hầu Tước Wellington. Napoléon
đã đổ hơn 300,000 quân vào chiến dịch Tây Ban Nha nhưng tới năm 1812, khi quân
Pháp xâm lăng nước Nga thì lực lượng du kích Tây Ban Nha đã chiếm ưu thế. Năm
1813, Vua Joseph Napoléon phải rút lui vĩnh viễn khỏi Madrid và Hầu Tước
Wellington đã giải phóng được nước Tây Ban Nha rồi đưa quân tiến sang miền nam
nước Pháp.
Tại phía đông của nước Pháp, tinh thần quốc gia của người dân nước Phổ đã
phát triển. Hai anh em Jacob (1785-1863) và Wilhelm Grimm (1786-1859) đã viết
ra các chuyện thần tiên (fairy tales) trong khoảng các năm 1812-15, chứng tỏ
được tính ưu việt của ngôn ngữ Đức, đồng thời nhà triết học J.G. Fichte
(1762-1814) cùng các nhà tiên tri về Quốc Gia Đức, đã bắt đầu đặt nền móng cho
các lý thuyết về Quốc Gia Đức Mới. Trong “Các bài nói với Dân Tộc Đức”
(Addresses to the German People, 1807-08), Fichte đã cho rằng Tiếng Đức là
nguồn của ngôn ngữ (Ursprache) và người dân Đức thuộc về một quốc gia cổ nhất
và đạo đức nhất (Urvolk). Như vậy phản ứng chống đối sự đàn áp của người Pháp
bắt đầu từ các nhà trí thức Đức và từ tầng lớp ưu tú. Sau đó, các tướng lãnh và
các chính khách có khả năng đã nắm quyền cai trị nước Phổ, là tiền thân của
nước Đức sau này. Tại nước Phổ, Tướng Gerhard von Scharnhorst (1755-1813) đã
đứng đầu các sĩ quan cao cấp, tổ chức lại quân đội cho có hiệu quả hơn và theo
các nguyên tắc dân chủ hơn. Giới hạn 42,000 quân do Napoléon ấn định cho xứ sở
Phổ đã được các sĩ quan Phổ tránh né bằng cách huấn luyện và tổ chức các đoàn
tân binh nhờ đó vào năm 1813, nước Phổ đã có hơn 150,000 binh lính sẵn sàng
chiến đấu.
Đồng thời với các cải cách quân đội, việc tổ chức hành chính và xã hội cũng
được thực hiện tại nước Phổ do các ý kiến của Bá Tước Heindrich Stein
(1757-1831), một nhà quý tộc khai sáng thuộc miền Rhineland, nhờ đó các tỉnh và
thành phố được thêm quyền tự trị, các người Do Thái có thêm nhân quyền, chế độ
nông nô bị hủy bỏ do đạo luật tháng 10 năm 1807. Tinh thần quốc gia Đức đã trỗi
dậy.
Sau năm 1807, khi Sa Hoàng Alexander gặp gỡ Napoléon tại Tilsit, các hành
động của người Pháp đã khiến cho Hoàng Đế Nga nghi ngờ sự thành thật của
Napoléon Bonaparte. Tới năm 1809, khi quân đội Pháp chiếm đóng nước Áo thì miền
Balkan thuộc Nga bị đe dọa và việc cắt xứ Galicia của nước Áo sát nhập vào lãnh
địa hầu tước Warsaw đã đe dọa phần đất Ba Lan thuộc Nga. Ngoài ra, còn có áp
lực của người Pháp muốn người Nga tuân theo Hệ Thống Lục Địa. Cuộc gặp gỡ giữa
Sa Hoàng và Napoléon tại thành phố Đức Erfurt vào năm 1808 đã không mang lại sự
đồng ý giữa 2 nước Pháp và Nga, rồi xứ Oldenburg bị sát nhập vào miền ảnh hưởng
thuộc Pháp, cai trị do người em rể của Napoléon làm hầu tước. Tất cả các sự
kiện này đã gây nên cuộc xâm lăng nước Nga vào năm 1812 của Napoléon.
Mùa xuân năm 1812, Napoléon Bonaparte đưa quân vào xứ Ba Lan, đe dọa biên
giới của Sa Hoàng Alexander rồi sau khi các thỏa hiệp không thành, Đại Quân của
Napoléon vào khoảng 453,000 người, đã vượt qua dòng sông Niemen, tiến sang đất
Nga. Quân đội Nga đã rút lui, áp dụng chiến lược “tiêu thổ kháng chiến”. Mùa
đông trên lãnh thổ Nga rất khắc nghiệt. Quân đội Nga càng rút lui, càng khiến
cho quân đội Pháp sa lầy vào xứ sở tuyết trắng mênh mông với các điều kiện sinh
sống mà Napoléon chưa từng có kinh nghiệm. Hệ thống tiếp liệu của người Pháp ở
quá xa, làng mạc Nga đã bị đốt sạch trước khi quân Pháp tiến tới khiến cho
người và ngựa của lực lượng Pháp không thể tìm ra được các thực phẩm thông
thường. Một cận vệ của Napoléon đã phải ghi lại rằng : “à không tìm ra được một
cư dân nào, không bắt được một tù binh nào. Chúng tôi đang ở trung tâm của xứ
Nga không người cư ngụ và chúng tôi giống như một con tầu không có địa bàn, ở
giữa một đại dương rộng lớn, không biết điều gì sẽ xẩy ra chung quanh chúng
tôi”.
Vào ngày 7 tháng 9 năm 1812, Tư Lệnh lực lượng Nga là Tướng Mikhail I.
Kutuzov (1745-1813) đã dàn trận, đánh quân Pháp tại Borodino. Trận chiến rất
đẫm máu, tàn ác và không phân thắng bại. Napoléon muốn kết thúc cuộc chiến thật
nhanh mà không được. Một tuần lễ sau, Napoléon đã tiến vào thành phố Moscow,
nơi mà người Nga rút lui sau khi đã đốt cháy mọi cơ sở. Sa Hoàng Alexander nhất
định không chịu thương thuyết. Việc rút quân Pháp bị coi là bắt buộc. Mùa đông
đã tới sớm trên đất Nga. Lực lượng Pháp bị thiệt hại nặng nề vì thiếu ăn, thiếu
mặc, thiếu phương tiện y tế, luôn luôn bị quân du kích Nga quấy phá và bị tấn
công bởi “Đại Tướng Mùa Đông” (General Winter). Sau cuộc rút quân vượt qua sông
Berezina vào tháng 11, lực lượng chính của Napoléon chỉ còn ít hơn 20,000 lính
đói ăn và rách rưới tả tơi. Đa số quân Pháp đã chết vì đói, vì lạnh, vì bệnh
tật, một số lớn bị bắt làm tù binh. Vào lúc này, các lãnh tụ Nga cũng e ngại
Napoléon sẽ giải phóng các nông nô để họ nổi lên chống lại các địa chủ, nhưng
những người nông dân bần cùng này đã tham gia vào các đội quân du kích, đánh
phá quân đội Pháp. Khi lực lượng Pháp đang rút lui thảm bại, Tư Lệnh Nga là
Tướng Kutuzov muốn để các nước đồng minh của Nga tiếp tục đánh quân Pháp nhưng
Sa Hoàng đã ra lệnh cho đạo quân Nga truy kích quân Pháp qua cả biên giới của
nước Nga.
Sự thất trận của Napoléon Bonaparte trên đất nước Nga đã làm phấn khởi các
dân tộc của châu Âu. Tại nước Đức, đã có các cuộc biểu tình chống Pháp. Các
lính quân dịch Đức bị bắt buộc phục vụ trong Đại Quân Pháp đã đào ngũ và tham
gia vào lực lượng quân sự chống đối. Người Áo cũng rút về quân đội của họ và có
thái độ thù nghịch với người Pháp còn tại nước Ý, người dân đã vùng lên phản
kháng. Tại Paris, trong cuộc đảo chính vào ngày 23-10-1812, đã có công bố rằng
Napoléon bị chết trận tại nước Nga. Tất cả các yếu tố này đã khiến cho Napoléon
Bonaparte vội vã rút lui trở về Pháp trước cả Đại Quân. Trong cuộc xâm lăng
nước Nga, gần 500,000 binh lính của Napoléon đã bị chết, hoặc đào ngũ hay bị
bắt làm tù binh.
Napoléon Bonaparte trở về tới Paris vào ngày 18 tháng 12 và đã công nhận
cuộc thảm bại trong bản thông cáo số 29 (the 29th Bulletin). Dù vậy, dân chúng
Pháp vẫn còn ủng hộ Napoléon. Chế độ độc tài một lần nữa lại được củng cố và Napoléon
tổ chức lại các đội quân mới.
Từ năm 1813, người dân của các xứ sở khác nhau của châu Âu đã nổi lên chống
lại người Pháp vì nền Tự Do của họ, giống như người Pháp đã tranh đấu vì Tự Do
trong các năm 1792 và 1793, và vào lúc này, niềm phấn khởi của người dân Pháp
khi trước đã không còn. Lý tưởng chinh phục của Hoàng Đế Napoléon không còn
được dân chúng Pháp hậu thuẫn.
Sau khi rút lui khỏi nước Nga, Napoléon Bonaparte lại phải đương đầu với
liên minh quân sự mới gồm các nước Anh, Nga, Áo, Phổ và Thụy Điển. Tháng
4-1812, Napoléon với các đạo quân mới, đã đánh thắng quân Nga và quân Phổ tại
các trận Lutzen, Bautzen và Dresden nhưng lực lượng của Liên Quân đông hơn. Đại
Quân của Napoléon rất cần được tăng cường nhưng không thể thực hiện nổi việc bổ
sung quân số. Do sự trung gian của nước Áo, một hội nghị các nước liên minh
chống Pháp được tổ chức tại Prague và giải pháp do Bộ Trưởng Ngoại Giao
Metternich đề nghị là Đế Quốc Pháp phải rút lui về các biên giới thiên nhiên
cũ, lãnh địa hầu tước Warsaw cùng Liên Bang Sông Rhine phải bị giải tán và nước
Phổ lấy lại được các biên giới của năm 1805. Trong hoàn cảnh này, Napoléon đã
phạm phải một sai lầm, là đã do dự quá lâu. Hội nghị kể trên đã bế mạc vào ngày
10-8 trước khi bản văn trả lời của Napoléon tới nơi. Nước Áo bèn tuyên chiến.
Trong cuộc chiến tranh chống lại Napoléon, nước Anh là quốc gia đầu tiên đã
đánh thắng người Pháp tại Trafalgar và trên các mặt trận kinh tế của Hệ Thống
Lục Địa. Sau đó là các thất bại của Napoléon tại nước Tây Ban Nha và tại nước
Nga. Quân đội Pháp càng ngày càng suy kém đi. Các người lính quân dịch Đức đã
dần dần đào ngũ, bỏ chạy qua phía liên minh chống Pháp. Napoléon cố gắng xây
dựng lại một đạo quân mới, nhưng đã không thể thay thế các trang bị thiệt hại
trên đất Nga. Cuộc sụp đổ nặng nề nhất của Napoléon Bonaparte là “Trận chiến
Leipzig” hay “Trận chiến của các Quốc Gia” (the Battle of the Nations) diễn ra
vào các ngày 16 tới 19 tháng 10 năm 1813, tại đó Đại Quân (Grand Armée) Pháp đã
bị đập nát tan tành. Các đoàn quân Pháp tại Tây Ban Nha đã phải rút lui sau các
thất trận vào tháng 6, rồi quân đội Anh tấn công quân Pháp tại phía bắc của
miền Pyrenées. Tại nước Ý, quân Áo đã vượt qua dòng sông Adige, chiếm Romagna
và Thống Chế Murat, vị tướng duy nhất phản bội Hoàng Đế Napoléon, đã ký giao
ước với triều đình Vienna. Các người Bỉ và Hòa Lan cũng nổi lên chống lại người
Pháp.
Vào tháng 1 năm 1814, nước Pháp bị tấn công tại tất cả các biên giới. Các
nước liên minh đã khôn khéo tuyên bố rằng họ chỉ chống lại cá nhân ông
Napoléon. Tại chính nước Pháp, Quốc Hội Lập Pháp và Thượng Viện Pháp, trước kia
dễ dàng vâng lời Napoléon, thì nay lại đứng lên đòi hỏi hòa bình và các tự do
chính trị, dân sự.
Qua Hiệp Ước Chaumont ký vào tháng 3-1814, các nước Áo, Anh, Nga và Phổ đã
đồng ý không thương thuyết riêng lẻ với nước Pháp trong 20 năm, cho tới khi nào
Napoléon bị lật đổ. Khi thua trận Leipzig, Napoléon đã phải rút về và liên quân
đã tiến vào thành phố Paris vào ngày 30 tháng 3. Các người có chức quyền của
thành phố Paris vào lúc này không còn e sợ Hoàng Đế Napoléon nữa, họ tìm cách
bắt liên lạc với liên minh quân sự. Là nhà lãnh đạo của chính phủ lâm thời, ông
Talleyrand đã đề nghị việc truất phế Hoàng Đế Napoléon và rồi không tham khảo ý
kiến của dân chúng Pháp, ông ta đã thương thuyết với Louis 18, người em của vị
Vua Pháp bị hành quyết là Louis 16. Khi Napoléon rút quân về tới Fontainebleau
thì được tin thành phố Paris đã đầu hàng lực lượng Liên Minh. Được khuyên nhủ
việc chống trả sẽ vô ích, Hoàng Đế Napoléon cuối cùng đồng ý thoái vị vào ngày
11-4-1814.
Do Hiệp Ước Fontainebleau, các nước liên minh đồng ý giao cho Napoléon cai
quản một tiểu vương quốc là hòn đảo Elba, nằm tại phía tây bắc của bờ biển Ý
Đại Lợi, với lợi tức hàng năm là 2 triệu quan do nước Pháp cung cấp và một đội
quân bảo vệ gồm 400 người tình nguyện, và ông Napoléon vẫn giữ được danh hiệu
Hoàng Đế. Sau lần dự mưu tự vẫn bằng độc dược không thành công, Napoléon
Bonaparte ngỏ lời từ biệt “Toán quân cận vệ cũ” (the Old Guard), qua sống tại
đảo Elba. Vợ và con trai của ông được gửi về nuôi bên người cha vợ, là Hoàng Đế
Francis I của nước Áo. Napoléon không bao giờ được gặp lại hai người thân này.
Sau cuộc chiến thắng Napoléon, các chính khách của Liên Minh đã hội họp tại
Vienna để phác thảo ra kế hoạch hòa bình. Vua Louis 18, thuộc dòng họ Bourbon,
lên ngai vàng của nước Pháp và đã ban ra đạo dụ năm 1814, thiết lập nên chế độ
quân chủ lập hiến. Đã xẩy ra cuộc “khủng bố trắng” của phe bảo hoàng đối với
các người Cách Mạng Pháp cũ.
Việc phục hưng dòng họ Bourbon đã sớm bị dân chúng Pháp chỉ trích. Mặc dù
vào năm 1814, người dân Pháp chán nản trước Hoàng Đế Napoléon nhưng họ cũng
không mong muốn sự trở về của phe bảo hoàng, vì Vua Louis 18 đã lên ngai vàng
do sự trợ giúp của các người ngoại quốc. Người dân Pháp vào lúc này vẫn còn lưu
luyến các thành quả của Cách Mạng. Bắt đầu có các âm mưu chống đối chính quyền
hoàng gia mới.
Tại đảo Elba, Napoléon vẫn theo dõi các tiến triển trên lục địa. Vì vào lúc
này, các nhà chính trị tại Vienna đang trù liệu về số phận của châu Âu và họ
coi đảo Elba quá gần với nước Pháp và nước Ý, nên họ muốn đầy Napoléon tới một
hòn đảo thật xa trong Đại Tây Dương. Napoléon cũng phản đối nước Áo đã ngăn trở
không cho vợ con theo sống với ông trên đảo. Thực ra, bà Marie Louise lúc này
đã có một người tình nên không có ý định đi theo chồng, và thêm vào đó, chính
phủ Pháp cũng từ chối trợ cấp tài chính cho Napoléon, khiến cho ông lâm vào
hoàn cảnh túng thiếu. Tất cả những yếu tố kể trên đã đưa đẩy Napoléon phải hành
động.
Vào tháng 2 năm 1815, Napoléon Bonaparte cùng với 1,100 người theo đi đầy
trước kia, đã xuống tầu, rời đảo Elba, tìm đường qua đất Pháp. Ngày 1 tháng 3
năm đó, họ đổ bộ tại Cannes và rồi tiến về thành phố Paris. Khi vượt qua rặng
núi Alps, Napoléon đã được các nông dân cộng hòa vây quanh tán thưởng. Một đạo
quân được phái đi từ Paris do Thống Chế Michel Ney chỉ huy, để bắt Napoléon
nhưng khi những người này gặp lại vị lãnh tụ cũ của họ, họ đã hoan hô Napoléon
Bonaparte như là vị Hoàng Đế và tham gia vào đoàn quân mới. Trước tình thế mới,
Vua Louis 18 bỏ chạy. Ngày 20-3, Napoléon Bonaparte tiến vào thành phố Paris và
được đám đông dân chúng khiêng lên, đưa vào Điện Tulleries. Ngay sau đó,
Napoléon đã công bố một hiến pháp mới có tính giới hạn các quyền hành của ông,
và ông cũng hứa với các nước liên minh rằng ông sẽ không gây chiến. Nhưng các
nhà lãnh đạo của các nước liên minh vẫn coi Napoléon là “kẻ thù và kẻ quấy phá
nền hòa bình của thế giới”. Vì vậy, cả hai phe lại chuẩn bị chiến tranh.
Để chống lại các đạo quân liên minh tập trung tại biên giới nước Pháp, Napoléon
đưa 125,000 quân sang nước Bỉ. Ngày 16-6, Napoléon đánh bại Thống Chế Gebhard
von Blucher của nước Phổ tại Ligny, gần Fleurus. Ngày 18-6 tại Waterloo,
Napoléon tấn công đạo quân Anh dưới quyền Tướng Wellington, là kẻ chiến thắng
tại cuộc Chiến Tranh Bán Đảo. Trận chiến tàn sát đã diễn ra. Hàng ngàn kỵ binh
Pháp đã xông trận và Napoléon sắp sửa chiến thắng thì đạo quân Phổ của Thống
Chế Blucher tiến đến, tăng cường cho đạo quân Anh, và mặc dù đạo quân cận vệ cũ
(the Old Guard) đã chiến đấu rất kiên cường, Napoléon đã bị thua trận vì bị
địch quân quá đông áp đảo. Napoléon bị thiệt hại 25,000 lính chết và bị thương,
9,000 lính bị bắt. Tổn thất của Tướng Wellington là 15,000 quân và của Thống
Chế Blucher vào khoảng 8,000 người. Waterloo trở nên một trong các trận đánh
danh tiếng nhất trong Lịch Sử.
Napoléon Bonaparte bỏ chạy về Paris và phải thoái vị lần thứ hai vào ngày
22 tháng 6 năm 1815. Thời gian Napoléon trở về Paris từ đảo Elba tới khi ông
thoái vị lần này, được gọi là “Giai đoạn 100 ngày”. Ngày 3 tháng 7, Napoléon đã
tới Rochefort, định tìm đường trốn qua châu Mỹ nhưng con tầu chiến của nước Anh
tên là Bellerophon, do Đại Tá Frederick Lewis Maitland chỉ huy, đã ngăn chặn,
không cho con tầu Pháp chở Napoléon rời khỏi bến cảng. Napoléon đành phải kêu gọi
sự bảo vệ an ninh của người Anh. Các nước liên minh lần này cùng đồng ý về một
điểm: ông Napoléon Bonaparte sẽ không được trở về đảo Elba nữa mà bị đưa tới
một hòn đảo rất xa. Sau đó chính quyền Anh công bố rằng hòn đảo Saint Helena
tại phía nam Đại Tây Dương đã được chọn làm nơi cư ngụ cho cựu hoàng.
Ngày 15 tháng 10 năm 1815, Napoléon cùng với một số người tình nguyện theo
đi đầy, đã bước lên hòn đảo St. Helena, gồm có: Tướng Henri-Gratien Bertrand,
nguyên thống chế bản doanh với vợ, Bá Tước Charles de Montholon, tùy viên với
vợ, Tướng Gaspard Gourgaud, ông Emmanuel Las Cases, cựu nhân viên cao cấp hoàng
gia, và một số tùy tùng cũ. Sau một thời gian ngắn cư ngụ tại ngôi nhà của một
thương gia Anh giàu có, Napoléon Bonaparte dọn tới nhà của vị toàn quyền hòn
đảo xây dựng tại Longwood.
8- Ngày tàn của Hoàng Đế Napoléon.
Napoléon Bonaparte trở về với đời sống buồn tẻ hàng ngày. Mỗi ngày ông thức
dậy trễ vào khoảng 10 giờ sáng và ít khi bước chân ra khỏi nhà. Ông được tự do
đi lại trên đảo nhưng với điều kiện phải có một sĩ quan người Anh đi kèm. Ông
đã không chịu chấp nhận điều kiện này mà ở trong nhà đọc sách và nói chuyện với
các người thân cận cũ. Người thư ký của ông là Las Cases đã ghi chép lại các
lời tường thuật của vị cựu Hoàng Đế Pháp để về sau, biên soạn thành sách.
Buổi tối từ 7 tới 8 giờ, Napoléon dùng cơm chiều, sau đó dành thời giờ chơi
bài hay đọc sách. Ông ưa thích các tác phẩm cổ điển. Ông cũng học tiếng Anh và
bắt đầu đọc được báo chí Anh nhưng ông cũng có nhiều sách Pháp từ lục địa gửi
qua, và ông đã đọc chăm chú các cuốn sách này cùng ghi thêm các lời nhận xét.
Saint Helena là một hòn đảo khí hậu tốt nhưng một nhân vật đã từng dọc
ngang chinh phục khắp châu Âu trong 20 năm trường làm sao chịu đựng được cảnh
cô quạnh, giam hãm trên một hòn đảo hẻo lánh. Napoléon Bonaparte lại không được
tin tức gì về vợ và con, biết đâu rằng Hoàng Hậu Marie Louise đã lập gia đình
một cách lén lút với một sĩ quan người Áo tên là Graf Adam von Neipperg mà
không đợi tới lúc ông chết. Người con trai của ông, sinh ngày 20-3-1811 có tên
là Francois Charles Joseph Bonaparte, lúc sinh ra đã có danh hiệu “Vua La Mã”
(King of Rome), thì nay trưởng thành và sinh sống như một tù nhân hoàng gia
dưới sự canh chừng của ông ngoại là Hoàng Đế Áo Francis I. Thời đó, các chính khách
của phe liên minh vẫn e ngại các người ủng hộ Napoléon sẽ lợi dụng danh nghĩa
của cậu con trai này để mưu cầu quyền lực tại nước Pháp nên Francois Bonaparte
được đổi tên thành Hầu Tước Reichtadt.
Từ tháng 4 năm 1816, Sir Hudson Lowe tới đảo St. Helena làm toàn quyền, đã
khiến cho đời sống của Napoléon khó chịu thêm. Napoléon trước kia đã không ưa
gì ông Lowe, là người đã từng chỉ huy toán quân xung kích trên đảo Corsica và
đây là nhóm lính tình nguyện phần lớn căm thù gia đình Bonaparte. Sir Lowe cũng
hiềm khích với ông Las Cases, người tin cẩn của Napoléon và đã tìm cách bắt bớ
ông này rồi trục xuất khỏi đảo. Vì vậy, liên lạc giữa Napoléon và vị toàn quyền
đã trở nên căng thẳng.
Tới cuối năm 1817, đã có dấu hiệu bệnh tật nơi vị cựu Hoàng Đế, một phần cũng
vì ông thiếu vận động. Napoléon có triệu chứng bị ung thư bao tử. Vị bác sĩ
người Ái Nhĩ Lan là ông Barry O’ Meara đã từng khuyên Napoléon thay đổi lối
sống, nay bị thuyên chuyển đi nơi khác. Thay thế là một bác sĩ tầm thường, gốc
thuộc đảo Corsica với tên là Francesco Antommarchi, đã cho thuốc cựu Hoàng Đế
nhưng không làm sao điều trị được thứ bệnh nan y vào thời đại đó.
Đầu năm 1821, căn bệnh của Napoléon trở nên trầm trọng thêm. Từ tháng 3, vị
cựu Hoàng Đế bị nằm liệt giường. Tháng 4, Napoléon Bonaparte đã đọc lời di chúc
cuối cùng, gồm có câu : “Tôi ước muốn nắm xương tàn của tôi nằm bên bờ sông
Seine, ở giữa những người dân Pháp mà tôi rất yêu mến. Tôi chết trước thời hạn,
bị giết bởi thể chế hoạt đầu Anh (the English oligarchy) và do các kẻ sát nhân
được thuê mướn”.
Ngày 5 tháng 5 năm 1821, cựu Hoàng Đế Napoléon đã thều thào câu nói :
“Thượng Đế của tôi, Nước Pháp, con trai của tôi, vị chỉ huy quân đội”. Napoléon
đã qua đời lúc 5:49 giờ chiều ngày hôm đó, khi chưa tròn 52 tuổi. Thi thể của
ông được mặc vô bộ quân phục mà ông ưa thích và được phủ lên bằng tấm áo choàng
màu xám, tấm áo trận mà ông đã khoác trong trận đánh Marengo. Đám tang của ông
được tổ chức đơn giản tại thung lũng Rupert, nơi ông thường đi tản bộ và trên
nấm mộ bên cạnh 2 cây liễu rủ, có tấm đá ghi hàng chữ : “Nơi đây an nghỉ “
(Ci-Git).
Vào năm 1840, Hoàng Tử Francois, con của Vua Louis-Philippe nước Pháp, đã
được phái đi trên một tầu chiến tới đảo St. Helena để mang về Pháp di cốt của
cựu Hoàng Đế Napoléon theo như ước nguyện cuối cùng của ông. Lễ an táng rất
trọng thể được tổ chức tại thành phố Paris vào tháng 12 năm đó, và linh cữu của
Napoléon Bonaparte được đưa qua Khải Hoàn Môn (Arc de Triomphe) và đặt tại Giáo
Đường Du Dome (Eglise du Dome), một bộ phận của Đài Chiến Sĩ Trận Vong (Hotel
des Invalides).
Napoléon Bonaparte vừa là một nhân vật lịch sử, vừa là một nhân vật huyền
thoại và đôi khi, khó lòng tách biệt 2 đặc tính này vì các sự kiện trong cuộc
đời của ông đã từng làm bừng sống trí tưởng tượng của các văn sĩ danh tiếng, các
nhà viết kịch có tầm vóc lớn và các nhà làm phim đa tài, họ là những người đã
xây dựng nên các huyền thoại Napoléon.
Napoléon Bonaparte là một trong các vị lãnh đạo quân sự thiên tài bậc nhất
trong Lịch Sử. Người ta đã coi ông là kẻ chinh phục ham quyền và chính Napoléon
đã từng nói rằng ông không muốn chinh phục các dân tộc khác mà chỉ muốn xây
dựng một liên bang các dân tộc tự do của châu Âu với một chính quyền cấp tiến.
Nhưng vì mục đích này, Napoléon đã muốn tập trung mọi quyền lực vào trong tay
mình.
Tại châu Âu và tại nước Pháp, câu châm ngôn “Tự Do – Bình Đẳng – Huynh Đệ”
của cuộc Cách Mạng năm 1789 tuy chưa cho phép người dân Pháp thụ hưởng đầy đủ
nền Dân Chủ như trong thế kỷ 20, nhưng từ năm 1815, dân chúng Pháp đã được đôi
phần nào Tự Do hơn, giới trung lưu đã không còn gặp các giới hạn của chế độ cũ
cấm đoán, các người Tin Lành, Do Thái và các nhà tự do tư tưởng đã nhận được sự
dung thứ (toleration) trên miền đất Pháp và trên các xứ vệ tinh của Pháp. Hiến
Pháp năm 1815 của nước Pháp tuy chưa đáp ứng được các lý tưởng dân chủ liệt kê
qua Bản Tuyên Bố Dân Quyền (the Declaration of the Rights of Man) nhưng đã bao
gồm trong đó một hình thức mới về tính Dân Chủ.
Cuộc Cách Mạng Pháp và Đế Chế Napoléon cũng đặt ra căn bản về quyền bình
đẳng trước nghĩa vụ phải đóng thuế. Giai cấp thứ ba (the 3rd estate) được cung
cấp nhiều cơ hội kinh tế hơn, các trở ngại áp đặt vào các hoạt động thương mại
bị gỡ bớt, các phần đất rộng lớn của hai giai cấp quý tộc và tu sĩ bị phân
chia, truyền qua tay giới tư sản thành thị và giới nông dân giàu có. Tính bình
đẳng về tài sản (property) được xác nhận trong đạo luật Ventose của năm 1794
rồi về sau được bổ túc.
Cuộc Cách Mạng Pháp là một bước quan trọng trong việc đi lên của giới tư
sản trung lưu, thuộc cả về thành thị lẫn nông thôn. Bộ Luật Napoléon sau đó đã
chôn vùi mọi bất bình đẳng xã hội của chế độ cũ và cũng vì thế, Napoléon đã nói
: “Bất kể tôi là Tổng Tài Thứ Nhất hay là Hoàng Đế, tôi đã là một vị Vua của
dân chúng : tôi đã cai trị vì quốc gia, và vì lợi ích của quốc gia mà không để
chính mình bị thiên lệch vì lời phản đối hay vì các tư lợi của một nhóm người
nào”.
Cuộc Cách Mạng Pháp và Đế Chế Napoléon cũng làm thăng tiến tình huynh đệ
qua đó, mọi người dân Pháp được coi là bình đẳng trước Pháp Luật và đồng thời
cũng cổ động cho tinh thần quốc gia (nationalism), một tình cảm thuộc về một
quần thể rộng lớn hơn là nước Pháp, một quốc gia được người dân coi là ưu đẳng
hơn các quốc gia khác. Từ trước năm 1789, tinh thần quốc gia Pháp đã tồn tại
qua các nhân vật như Joan of Arc, Vua Henry IV và Vua Louis 14 để rồi về sau,
tinh thần quốc gia đó lại thể hiện qua đạo luật tổng động viên ngày 23-8-1793
của Hội Nghị Quốc Ước. Đế Chế Napoléon đã cho thấy tinh thần quốc gia đã dễ
dàng đưa đến chế độ “đế quốc” với tầm vóc lớn lao mà trước kia chưa từng thấy.
Trong cuộc Cách Mạng Pháp, Robespierre và các đảng viên Jacobin là những
người làm chính trị không nhân nhượng, tiếp theo là các nhân vật Thermidor và
Brumaire trở nên thực tế hơn và ôn hòa hơn, rồi sau đó dưới thời Napoléon, tinh
thần cách mạng đã trở thành một loại “tôn giáo”, đòi hỏi tới đặc tính chính
thống chính trị (political orthodoxy), và tinh thần “quốc gia” sau năm 1815 đã
tạo nên “các chiến sĩ, các tông đồ và các người tử đạo” (martyrs) tại nhiều nơi
trên mặt đất.
Sau khi Napoléon Bonaparte qua đời, đã có các cuốn sách chê trách cũng như
ca tụng danh tiếng của vị cựu Hoàng Đế này. Nhà văn người Pháp rất nổi danh và
có cảm tình hoàng gia là ông Francois de Chateaubriand đã viết ra một tác phẩm
văn chương chỉ trích Napoléon, có tên là “Về Buonaparte và dòng họ Bourbons, và
sự cần thiết phải tập hợp quanh các ông hoàng chính gốc của chúng ta, vì sự an
toàn của nước Pháp và của châu Âu “ (De Buonaparte, des Bourbons et de la
nécessité de se rallier à nos princes légitime, 1814). Về sau vào năm 1870, khi
Đế Chế Pháp thứ hai (the Second Empire) sụp đổ, cũng có các sách chê trách
Napoléon mà đại biểu là cuốn “Các nguồn gốc của nước Pháp hiện đại” (Origines
de la France contemporaine, 1876-94) của Hippolyte Taine. Napoléon Bonaparte
cũng bị các nhà lý trí (rationalist) thuộc nhóm Bách Khoa (Encyclopédie) phê
phán là “ông kẹ người đảo Corsica” (the Corsican ogre), người đã dám hy sinh
500,000 đồng bào vì các tham vọng của mình.
Trái với các lời phê bình kể trên, các huyền thoại về Napoléon Bonaparte đã
phát triển rất mau. Các cuốn hồi ký, tường thuật, ghi chép của những người đi
đầy theo cựu Hoàng Đế đã đóng góp rất đáng kể vào việc tạo dựng nên các huyền
thoại đó. Ngay từ năm 1814, đã có các thơ văn ca tụng Napoléon, chẳng hạn như bài
thơ ngắn của Lord Byron (Ode to Napoléon Bonaparte), bài thơ “Die Grenadiere”
(Người lính bộ binh) của thi hào người Đức Henrich Heine. Cuộc đời của Napoléon
được mô tả lại qua tác phẩm “Vie de Napoléon” của tiểu thuyết gia người Pháp
Stendhal vào năm 1817.
Năm 1822, Bác Sĩ O’Meara đã cho xuất bản tại London cuốn sách “Napoléon
trong cảnh tù đầy” (Napoléon in Exile) rồi năm sau, 1823, xuất hiện cuốn sách
của Montholon và Gourgard với tên là “Hồi Tưởng để dùng cho lịch sử của nước
Pháp dưới thời Napoléon, viết tại Sainte-Helène do Hoàng Đế đọc ra” (Mémoires
pour servir à l’histoire de France sous Napoléon, écrits à Sainte-Helène sous
sa dictée). Người thư ký riêng của Napoléon là ông Las Cases cũng trình bày cựu
Hoàng Đế như là một người cộng hòa, đã chống lại châu Âu để bảo vệ Tự Do, qua
tác phẩm nổi tiếng “Hồi Tưởng” (Memorial). Cuốn sách “Các giờ phút cuối của
Napoléon” (Derniers moments de Napoléon) của Bác Sĩ Antommarchi cũng được in ra
vào năm 1825 và con số các tác phẩm ca tụng Napoléon đã gia tăng rất nhiều,
đáng kể là bài thơ ca ngợi của Victor Hugo (Ode à la Colonne), trong toàn tập
28 cuốn “Các vinh quang và chinh phục của người Pháp” (Victoires et conquêtes
des Francais), và tác phẩm của Sir Walter Scott “Cuộc đời của Napoléon
Bonaparte, Hoàng Đế của người Pháp” (Life of Napoleon Bonaparte, Emperor of the
French).
Napoléon Bonaparte là một nhân vật đã để lại nhiều định chế lâu bền mà trên
đó nước Pháp ngày nay vẫn còn được xây dựng, đó là hệ thống hành chính của các
tỉnh (prefects), Bộ Luật Napoléon, hệ thống tư pháp, Ngân Hàng Pháp Quốc và tổ
chức tài chính quốc gia, các đại học và các hàn lâm viện quân sự.
Napoléon Bonaparte là một danh nhân đã làm thay đổi Lịch Sử của nước Pháp
và của Thế Giới.
@ Phạm Văn Tuấn
Nguồn: nghiencuulichsu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét