Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2014

Bán Dầu Chống Giặc... Và Kiếm Lời

Nguyễn-Xuân Nghĩa

Vì sao Hoa Kỳ nên cho xuất cảng dầu thô?



* Thả dầu may ra thì đỡ thả bom!... *
 
Tuần qua, khi Iraq có loạn với lực lượng xưng danh Quốc gia Iraq và Đông phương (ISIL) từ Syria tràn qua đã chiếm các thành phố Mosul và Tikrit rồi uy hiếp thủ đô Baghdad, giá dầu thô đã tăng vọt. Hôm Thứ Năm 19, dầu thô trên thị trường Brent vượt mức 115 đồng một thùng, còn trên thị trường NYMEX của Mỹ vẫn cứ chờn vờn ở giá 107 đồng,

Do tình trạng cung cầu khá căng thẳng hiện nay, nếu xứ Iraq mới trở lại bán dầu ở giữa khu vực chiến lược về năng lượng là Trung Đông mà lại bị khủng hoảng và các giếng dầu bị tấn công thì kinh tế thế giới có thể lại bị tổng suy trầm nữa. Đó là kịch bản đáng ngại nếu giá dầu tăng thêm 20 đô la, trong khi Ngân hàng Thế giới vừa hạ mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ 3,4% xuống 2,8% cho năm nay. Nhiều chuyên gia về thương phẩm và năng lượng còn nói đến giả thuyết kinh hoàng mà họ cho là khả thể, là dầu thô sẽ lên tới 200 đô la một thùng!

Khi ấy, kinh tế toàn cầu không chỉ suy trầm mà suy thoái, và trôi vào khủng hoảng.


***

Bốn tháng trước, khi vụ khủng hoảng Ukraine bùng nổ, người ta đã nói đến thế mạnh của Tổng thống Vladimir Putin nhờ Liên bang Nga là một nước xuất cảng dầu thô và khí đốt cho nên có thể dùng năng lượng làm võ khí hóa giải áp lực của các nước Âu Châu.

Năng lượng đem lại phân nửa thu nhập của Nga và ngân sách của Putin được trù tính với giá dầu ở mức 117 đồng một thùng. Nếu giá dầu mà sụt đến mức 90 đồng thì nền kinh tế đang suy trầm của Nga sẽ gặp khủng hoảng, như đã từng bị vào năm 2009. Vì vậy, một trong các giải pháp ứng phó của Tây phương, Âu Châu và Hoa Kỳ, là làm giảm giá dầu thô và khí đốt.

Để giải toả sức ép của Nga, và yểm trợ Ukraine cùng các đồng minh Âu Châu, Hoa Kỳ có thể áp dụng giải pháp đó như nhiều nhân vật trong Quốc hội đã đề nghị từ Tháng Ba. Người ta lý luận rằng việc Mỹ cho phép xuất cảng dầu thô và khí đốt của mình có thể là đòn phản công.

Nhưng bây giờ với vụ Iraq, vấn đề hết là phản công để đối phó với Liên bang Nga, mà là ngừa rủi ro khủng hoảng vì năng lượng lên giá. Một trong các giải pháp lại được nhắc nhở là Chính quyền nên cho phép bán dầu. Ngẫu nhiên sao, cuối Tháng Năm vừa qua, công ty tư vấn đa năng IHS vừa công bố một phúc trình nghiên cứu theo chiều hướng này.

Vài hàng về IHS này đã.

Xuất phát từ một nhà xuất bản sách báo kỹ thuật vào năm 1959, IHS Inc. (Information Handling Service, Vận trù Thông tin) là doanh nghiệp về thông tin của Hoa Kỳ có hội sở tại tiểu bang Colorado và có nhiều phân bộ như Jane's Information ở bên Anh, nổi tiếng về nghiên cứu quốc phòng, hay Global Insight ở bên Mỹ, chuyên về tư vấn kinh tế.... Doanh nghiệp này chú trọng đến các vấn đề kỹ thuật không gian, khai thác nhu liệu thông tin, năng lượng hay kinh tế toàn cầu và nhận nghiên cứu từng hồ sơ chuyên biệt cho các khách hàng.


***

Về bối cảnh, Hoa Kỳ vừa lặng lẽ tiến hành một cuộc cách mạng về thuật lý năng lượng ("energy technology") với những kỹ thuật khai thác rất mới để (xin tạm gọi là) "gạn cát lấy dầu và khí đốt". Bài này xin nói riêng về dầu thô, theo bản phúc trình 144 trang của IHS.

Nhờ cuộc cách mạng về kỹ thuật "fracking", từ năm 2008 đến Tháng Ba năm nay, sản lượng dầu thô của Mỹ đã tăng đến 64%, thêm được ba triệu 200 ngàn thùng một ngày, viết tắt là 3,2 mbd. Cũng nhờ tăng sản lượng nội địa, Hoa Kỳ lệ thuộc ít hơn vào dầu nhập cảng, từ 60%, lượng dầu ngoại nay chỉ chiếm có 30% số tiêu thụ. Tức là Mỹ vẫn nhập dầu, nhưng ít hơn, và sản lượng Mỹ có nâng số cung trên toàn cầu trong khi nhiều nước sản xuất khác lại bị trở ngại nên Hoa Kỳ đã tránh cho thế giới một vụ tăng giá dầu. Tăng suất của Mỹ - hơn ba triệu thùng một ngày như vừa nói – là một kỷ lục lịch sử và cao hơn tổng số gia tăng vừa qua của tất cả các nước khác.

Theo một công trình nghiên cứu năm ngoái của cơ quan International Energy Agency (World Energy Outlook 2013), thì nhờ đặc tính địa chất và thuật lý mới, nội trong thập niên này Mỹ có triển vọng là nước sản xuất dầu thô số một thế giới, tức là vượt Nga và các nước Trung Đông. Khi ấy, bài toán năng lượng của Hoa Kỳ và hậu quả chiến lược cho thế giới, sẽ có thay đổi.

Nhưng câu hỏi đặt ra là ngày nay Hoa Kỳ vẫn còn phải mua của thiên hạ đến 30% lượng dầu tiêu thụ, tại sao lại muốn cho bán dầu ra ngoài? Ai cấm mà phải xin?

Người ta có ba câu trả lời; trước hết là trở ngại pháp lý về quyền xuất cảng.

Từ những năm 1972, khi thế giới bị khủng hoảng năng lượng vì đòn phong toả dầu thô của các nước bán dầu tại Trung Đông, Hoa Kỳ áp dụng chánh sách kiểm soát giá dầu và cấm xuất cảng dầu để bảo đảm an toàn cho thị trường nội địa. Mươi năm sau, từ năm 1981, việc kiểm soát giá dầu theo chế độ bao cấp khá phổ biến trước đó đã chấm dứt để giá dầu lên xuống theo quy luật cung cầu. Nhưng lệnh cấm xuất cảng vẫn được duy trì cho tới ngày nay.

Vấn đề thứ hai thuộc về kỹ thuật, là khả năng chế biến, tức là lọc dầu thô ra xăng, nhớt, dầu cặn, v.v.....

Hệ thống chế biến của Mỹ đã đầu tư cả trăm tỷ để lọc dầu ra xăng và dầu ở đây là loại "nặng", chủ yếu nhập từ Canada, Mexico hay Venezuela. Trong khi đó, kỹ thuật hay công nghệ "fracking" – bơm nước và dung dịch hóa học vào các tầng đá phiến để giải phóng dầu thô và khí đốt – lại bơm lên loại "dầu chặt" hay "dầu nhẹ", tight oil hay light oil.

Tức là hạ tầng chế biến không phù hợp với loại nguyên nhiên liệu mới, cho nên Mỹ thiếu dầu nặng mà thừa dầu nhẹ nhưng lại chưa được phép xuất cảng vì những ràng buộc được đưa ra từ hơn 30 năm trước.

Vấn đề thứ ba là chính trị.

Nhiều doanh nghiệp chế biến là các hãng lọc dầu thì vẫn muốn duy trì lệnh cấm bán để mua nguyên liệu với giá rẻ. Họ vận động hành lang chính trị và yêu cầu Quốc hội không đổi luật. Kế đó, các trung tâm bảo vệ môi sinh rất có ảnh hưởng trong đảng Dân Chủ và Chính quyền Barack Obama thì e là kỹ thuật mới sẽ gây ô nhiễm. Họ đã muốn hạn chế giấy phép lập hãng lọc dầu, và nay vẫn chặn đường xuất cảng nên cản trở cuộc cách mạng về thuật lý năng lượng.

Hậu quả là Hoa Kỳ tiếp tục mua năng lượng do nơi khác khai thác, với kỹ thuật kiểm soát ô nhiễm thua xa kỹ thuật Hoa Kỳ. Nói theo kinh tế là khi nhập cảng dầu, Hoa Kỳ gây thêm ô nhiễm cho địa cầu nhiều hơn là nếu sản xuất lấy. Việc Tổng thống Obama đã lần lữa nhiều năm rồi vẫn trì hoạn dự án lập ồng dẫn dầu Keystone XL để nhập dầu Canada cho các doanh nghiệp Mỹ chế biến tại nhiều tiểu bang cũng phản ảnh áp lực đó của giới bảo vệ môi sinh.

Bây giờ, ta bước qua bài toán then chốt là chuyện lời lỗ trên tổng thể...


***


Trước hết là mối lợi kinh tế.

Theo phúc trình của IHS, nếu Hoa Kỳ giải toả lệnh cấm bán dầu và cho phép mua bán tự do, thì nhật lượng dầu thô của Mỹ hiện nay là 8,2 triệu thùng (một ngày) có thể tăng thêm ba triệu, lên tới 11 triệu 200 ngàn thùng. Nhờ vậy, từ năm 2016 đến 2030, kinh tế Hoa Kỳ có thêm một lượng đầu tư trị giá 746 tỷ đô la và tạo thêm việc làm cho công nhân Mỹ. IHS ước tính là sản lượng kinh tế Hoa Kỳ đã tăng được 1% trong hai năm qua chính là nhờ khu vực năng lượng và thống kê Bộ Lao Động cũng cho biết là khu vực dầu khí đã tạo ra nhiều việc làm nhất trong giai đoạn khó khăn vừa qua.

Thứ nhì, thế giới ngày nay vẫn yết giá dầu bằng đô la và giá xăng dầu tiêu thụ trên thị trường Mỹ được tính giá từ giá dầu quốc tế, chứ không theo giá dầu thô nội địa. Khi Hoa Kỳ nâng sản lượng dầu thì giá dầu trên thế giới sẽ giảm, nhờ vậy mà xăng dầu cho nhà tiêu thụ tại Mỹ cũng giảm. IHS dự toán là giảm được tám xu cho một ga lông. Nhờ đó, giới tiêu thụ đỡ tốn – hay tiết kiệm được – 265 tỷ đô la trong khoảng thời gian từ 2016 đến 2030.

Lập luận này quan trọng vì phản bác lối suy tính của các hãng lọc dầu. Họ muốn chặn đà xuất cảng để giá dầu nội địa sẽ giảm vì cung nhiều hơn cầu. Thật ra, khi Mỹ xuất cảng dầu thì hậu quả dội ngược vào trong sẽ khiến giá dầu thô và xăng nhớt nội địa sẽ giảm.

Thứ ba, khi được phép xuất cảng dầu, sản lượng kinh tế Mỹ có thể tăng được 135 tỷ, số việc làm thêm được gần một triệu và cụ thể thì lợi tức của mỗi hộ gia đình có thêm 391 đồng. Ngoài ra, hóa đơn mua dầu của Hoa Kỳ có giảm được 67 tỷ một năm; so với tình trạng nhập cảng vào năm 2013 thì giảm 30%.

Tổng kết lại thì số thu nhập của nhà nước Hoa Kỳ trong khoảng thời gian 15 năm tới, từ 2016 đến 2030, sẽ tăng thêm được 1.311 tỷ....

Quan trọng hơn cả, Hoa Kỳ sẽ thành một đại gia về năng lượng, ít lệ thuộc hơn vào dầu thô của nước ngoài mà còn có ảnh hưởng mạnh hơn đến giá dầu trên thế giới, kể cả ngân sách của Liên bang Nga hay khả năng chống đỡ của Ukraine và các nước Âu Châu.

Xưa nay, người ta cứ lầm tưởng rằng Hoa Kỳ gây chiến khắp nơi là để mua dầu. Nhiều người còn cho là nước Mỹ nham hiểm cứ mua dầu của thiên hạ trong khi ngồi lên các giếng dầu của mình. Sự thật lại không đơn giản như vậy. Và từ ba chục năm nay, luật chơi về năng lượng đã có thay đổi nhưng giới chánh trị thì chậm lụt và cục bộ nên chưa nhìn ra.

Dù sao, khuyến cáo của IHS rất nên được các chính khách Mỹ chú ý.

Còn hơn là nghe lời một Nghị sĩ Dân chủ tại New York là Chuck Schumer, rằng nên phản đòn Putin bằng cách bán dầu từ kho Dự trữ Chiến lược để làm giảm giá dầu trên thế giới!

Kho dự trữ được lập ra từ năm 1975 để đối phó với sự gián đoạn bất thường của nguồn cung cấp, và tổng cộng chỉ có gần 700 triệu thùng, đủ cho hơn một tháng tiêu thụ. Xả kho chiến lược này không thể làm giảm giá dầu quốc tế mà chỉ phản ảnh tầm nhìn ngắn ngủi của các chính khách!

Chúng ta sẽ theo dõi viễn kiến của họ, và nên bỏ phiếu căn cứ trên tiêu chuẩn đó.


_______________


ISIL hay ISIS?

Bài này xin có một bonus làm mưỡu hậu về cách gọi tên lực lượng vừa gây chấn động tại Iraq.

Thành lập từ năm 2004 như một phân cục của tổ chức khủng bố Al-Qaeda tại Iraq, lực lượng này đã xưng danh là "Islamic State in Iraq and Syria", nên được nhiều cơ quan truyền thông Mỹ, kể cả tờ New York Times viết tắt là ISIS. Trên đài truyền hình hay phát thanh, nhiều nơi đọc tên tắt ISIS thành "eye-sis", tương tự như nữ thần Isis của Ai Cập. Nhưng cũng có nơi đọc thành "ee-sis"

Rắc rối là Chính quyền Hoa Kỳ và nhiều hãng thông tấn như AP thì gọi là "Islamic State in Iraq and the Levant" và viết tắt là ISIL. Tên tắt này được đọc thành "eye-ess-eye-ell". Cũng tên tắt ISIL ấy phù hợp với một cách xưng danh khác của lực lượng phiến quân vừa từ Syria tràn qua Iraq "Islamic State in Iraq and ash-Sham" hay "al-Sham."

Vấn đề ngôn từ ở đây là tên của lực lượng xuất phát từ tiếng Ả Rập: "al-Dawla al-Islamiya fil-Iraq wa al-Sham". Al-Sham là tiếng Ả Rập chỉ vùng đất chung quanh Dasmascus của Syria, sau này mở rộng thành cả khu vực từ Địa Trung Hải vào tới đất Lưỡng Hà của Iraq. Khi theo đúng tên gọi al-Sham ấy thì lực lượng ISIL muốn lập ra một đế chế Hồi giáo bao trùm lên đất Syria, Israel, Jordan, Lebanon, Iraq và cả vùng Đông Nam của Turkey.

Vì mấy rắc rối về lịch sử như vậy, người ta mới dịch tên thành "Islamic State in Iraq and the Levant", "Islamic State in Iraq and Syria", hay "and Greater Syria", v.v.... 

Nhưng chưa đủ nhức đầu, kẻ trong cuộc là đám phiến quân ấy không chấp nhận chữ Syria - là do Hy Lạp đặt ra thời xưa - hay tên Syria là quốc gia hiện đại mà chính họ muốn xoá bỏ để trở về một khái niệm cổ xưa hơn, cách mạng hơn!

Người viết này thiên về cách gọi tắt là ISIL, nó vừa thể hiện chữ Levant vừa phản ảnh chữ al-Sham hay ash-Sham, và cho còn thấy tham vọng rộng lớn của lực lượng cuồng tín này vì muốn xây dựng một Đế chế Hồi giáo bao trùm lên Syria, Lebanon, Israel, Jordan và Iraq.

Chuyện còn dài, nhưng vài dòng trình bày cũng để cho thấy sự đắn đo cân nhắc của người làm tin hay viết bình luận.
 

Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2014

Đổ Bộ 1944 và Đổ Bể 2014

Nguyễn-Xuân Nghĩa

Mỗi lễ tưởng niệm quá khứ lại là một vở kịch chính trị cho hiện tại....

* Nhửng hài kịch trong một bi kịch lớn của nhân loại *

 
Ngày Thứ Sáu, mùng sáu Tháng Sáu, lãnh đạo các nước "đồng minh", trong ngoặc kép, tới Pháp dự lễ kỷ niệm cuộc đổ bộ tại Normandie cùng ngày hôm đó vào năm 1944 để mở đầu cho việc giải phóng Âu Châu đúng 70 năm về trước. Năm nay, ngần ấy vị nguyên thủ đều "có những niềm riêng"....

Cho nên chúng ta chứng kiến một hài kịch nhiều cảnh.

Normandie là lãnh thổ của Pháp, khi đó nằm dưới gót giày Đức quốc xã. Lãnh đạo Lực lượng Pháp Tự do (France Libre) khét nổi tiếng với lời kêu gọi "Toàn quốc kháng chiến" phát thanh từ thủ đô Luân Đôn của Anh vào ngày 18 Tháng Sáu năm 1940 là Tướng Charles de Gaulle. Ông bị gạt ra ngoài quyết định đổ bộ để tổng phản công của Anh và Mỹ, chỉ được Winston Churchill ái ngại cho biết có hai ngày trước!


***

Một chút bối cảnh gần xa:

Khi Thế chiến II bùng nổ vào đầu Tháng Chín 1939, de Gaulle mới là Đại tá. Ông tham gia kháng chiến chống Đức rất sớm và tới Tháng Năm 1940 được gắn một sao của Thiếu tướng, Trừ bị thôi, sau này miền Nam chúng ta gọi là Chuẩn tướng. Dù lon lá rất thấp so với nhiều thượng cấp lẫy lừng hơn trong quân đội Pháp, de Gaulle vẫn tự trao phó trách nhiệm lãnh đạo kháng chiến, tự cho mình là đại diện chân chính của nước Pháp, là nước Pháp, nên gặp khá nhiều trở ngại.

Một trong những trở ngại lớn nhất là Tổng thống Franklin D. Roosevelt của Hoa Kỳ.

Ông Roosevelt hâm mộ văn hoá Pháp nhưng dị ứng với chế độ thực dân và coi thường de Gaulle. Về sau còn chê nhân vật này là lãnh tụ độc tài con con. Trong hàng ngũ kháng chiến Pháp, Roosevelt tin vào loại người dễ nói chuyện hơn, như Đại tướng Henri Giraud hay Đô đốc François Darlan. Trong nội bộ công cuộc kháng chiến của Pháp, nhiều tướng lãnh khác đã từng muốn lật de Gaulle mà không thành, kể cả Giraud và Darlan với thế lực Mỹ ở đằng sau. Đấy là chuyện quá xa cho chúng ta ngày nay?

Qua năm sau, khi nước Pháp được giải phóng, cũng de Gaulle đã đòi là quân đội Pháp dẫn đầu đoàn binh tiến vào thủ đô Paris và quyết liệt từ chối việc Hoa Kỳ phát hành MPC (đô la đỏ) cho lính Mỹ tạm sử dụng trên thị trường Pháp. Phải chi miền Nam chúng ta nhớ được và làm được chuyện đó sau khi Thủy quân Lục chiến Mỹ bất ngờ đổ bộ vào Đà Nẵng, Tháng Ba 1965!

Tinh thần quốc gia của de Gaulle và thái độ trịch thượng của Roosevelt khiến quan hệ Pháp-Mỹ có mâu thuẫn nặng. Cho nên về sau cũng ảnh hưởng đến phản ứng của de Gaulle với cuộc chiến của Hoa Kỳ tại Việt Nam! Vậy mà Lyndon B. Johnson chọn thủ đô Paris đế tiến hành "hòa đàm" với Hà Nội năm 1968. Nhưng đấy là những chuyện về sau của một hài kịch khác.

Vì những lý do sâu xa nói trên, khi lên làm Thủ tướng (1944-1946) rồi Tổng thống Pháp (1959-1969) de Gaulle không hề dự lễ kỷ niệm ngày đổ bộ, ngày D-Day như Mỹ và Anh vẫn gọi.


***


Cuộc đổ bộ ấy cũng không có sự tham gia của quân đội Liên bang Xô viết.

Đây là một kế hoạch Anh-Mỹ.

Trong Thế chiến II, trên địa bàn Âu Châu, ba nước thực tế lãnh đạo phe "đồng minh" là Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô. Biệt tài của lãnh đạo Liên Xô thời ấy là Stalin là... sát quân và giết dân. Việc đo đếm tổn thất là điều khó và khó chính xác, nhưng số tử thương của Liên Xô lên tới ít nhất là 22 triệu người (khoảng 14% dân số thời ấy), so với Hoa Kỳ (cỡ 420 ngàn, 0,4% dân số) và Anh (450 ngàn, gần 1% dân số) và Đức (gần sáu triệu, quãng 10% dân số) thì nặng gấp bội. Vì vậy, Stalin rất mừng khi Anh-Mỹ mở cuộc tổng phản công ở hướng Tây, để giảm áp lực cho Hồng quân Xô viết tại hướng Đông.

Nghĩa là Liên Xô không có tí lon nào trong vụ Normandie 1944. Mãi tới năm 2004, 15 năm sau khi Liên Xô bắt đầu tan rã và 13 năm sau khi Liên bang Nga ra đời, lãnh đạo nước Nga mới được mời dự lễ kỷ niệm 60 năm ngày đổ bộ.

Năm đó, Tổng thống Vladimir Putin mới chỉ là thợ vịn đóng vai phụ diễn trong vở Normandie. Khi ấy, Tổng thống George W. Bush mới gây chấn động sau chiến dịch Iraq năm trước. Lần đầu tiên một Tổng thống Mỹ công khai phê phán sự sai lầm - và bày tỏ nỗi ân hận - của Hoa Kỳ là hy sinh tự do của phân nửa Âu Châu, để Đông Âu rơi vào quỹ đạo Xô viết.

Bài diễn văn đó khiến ta nhớ lại lễ kỷ niệm 40 năm ngày đổ bộ Normandie.

Năm 1984, Tổng thống Ronald Reagan tới Normandie đọc diễn văn, hào hiệp tỏ lòng thương tiếc cái giá rất đắt mà thường dân Nga đã phải hứng chịu trong Thế chiến II, rồi hào hùng đả kích việc Hồng quân Liên Xô chiếm đóng các nước Đông Âu. Lễ kỷ niệm ngày đổ bộ là một dịp phê phán về đạo lý, hoàn toàn phù hợp với lý luận Reagan, rằng Liên Xô là "Đế quốc độc ác".

Chúng ta nhảy tới năm nay, lễ kỷ niệm thứ 70.


***

Vladimir Putin vẫn được Tổng thống François Hollande của Pháp mời qua để hiên ngang có mặt và phóng hình tuyên truyền về nhà, dù đã có vụ thôn tính Crimea và uy hiếp Ukraine. Vì vậy, vở kịch "Normandie 70" trở thành hài kịch.

Hãy nhắc tới bi kịch đã: 20 năm trước, vào năm 1994, ba nước "đồng minh năm xưa" thời Thế chiến II là Anh, Mỹ, Nga có một thỏa thuận tại Budapest về cách xử lý kho võ khí hạch tâm của Ukraine. Nước Ukraine độc lập từ 1991 sẽ trao lại toàn bộ số võ khí tàn sát này cho Liên bang Nga.

Dưới thời Liên Xô, một phần ba võ khí hạch tâm Xô viết nằm tại Cộng hoà Liên bang Ukraine trong Liên bang Xô viết. Khi Liên Xô tan rã, kho võ khí ấy đứng hàng thứ ba thế giới về số lượng. Ukraine xin trả lại cho Liên bang Nga với lời cam kết là được giữ nền độc lập. Sự cam kết đó của Nga có Anh và Mỹ bảo trợ. Pháp và Trung Quốc có được mời vào nhưng lảng xa để khỏi bị trách nhiệm gì trong trò bảo lãnh đó.

Bây giờ, nền độc lập của Ukraine bị uy hiếp! Các nước bảo trợ nghĩ sao?

Lãnh đạo Anh, Pháp, Mỹ đều vui lòng trao giải an ủi cho Ukraine khi gặp Tổng thống tân cử của xứ này là Petro poroshenko. Nhưng chuyện chính thì chưa ai dám nhắc. Nhiều người nhẹ dạ còn mong là qua lễ kỷ niệm buổi sáng và dạ tiệc khoản đãi buổi tối, các lãnh tụ Anh, Đức, Mỹ, Pháp sẽ có dịp nói chuyện phải quấy với Putin về Đông Âu.

Trong một bi kịch lớn của nhân loại thường có nhiều hài kịch chính trị.

Cho dù Liên Âu dõng dạc phản đối Putin về chuyện Ukraine thì Pháp vẫn bán chiến hạm Mistral cho Nga và tháng này sẽ huấn luyện Hải quân Nga sử dụng món hàng của mình. Nước Đức thì tiếp tục duy trì quan hệ kinh tế với Nga. Hoa Kỳ thì lâm nạn với vụ trao đổi đặc công khủng bố của Taliban lấy một tù binh đào ngũ về để rồi chẳng biết giấu đi đâu!

Công trình sư của trò hề này là Barack Obama thì cố trấn an Liên Âu với một tỷ đô la quân viện. Một tỷ Mỹ kim là lớn lắm, bằng tổng số chi phí của nước Mỹ trong một năm tranh cử như 2014 chứ không ít. Nhìn từ cách khác, đấy là tiền dân Mỹ bỏ ra trong một năm để... nhai kẹo cao su, chewing gum.

Trong bi kịch Thế chiến, người ta cũng thường quên nhiều thảm kịch quốc gia.

Liên Xô hy sinh nhiều nhất trong cuộc chiến này, với số tử vong và thương vong khổng lồ, cả quân và dân. Nhưng Liên bang Xô viết khi đó bao gồm nhiều nước Cộng hoà về sau đã giành lại độc lập. Các quốc gia này có lúc nằm trong hệ thống Liên Xô và phải góp phần xương máu, như Ukraine, Armenia, Georgia, Belarus, Uzbekistan, hay Kazakhstan, v.v... Tự nguyện hay không là tùy hoàn cảnh, nhưng hy sinh thì có.

Nước Pháp tràn đầy văn hóa nhân bản đã quên chuyện đó. Lãnh đạo của nhiều nước độc lập trong Liên bang đã tan hoang của Nga lại không được mời tham dự lễ kỷ niệm Normandie!

Một kỳ thủ xuất sắc của Nga và trở thành nhân vật đấu tranh dân chủ nổi tiếng là Garry Kasparov có một nhận xét đầy mỉa mai: khi mời Putin qua Pháp dự lễ kỷ niệm, có lẽ người ta muốn có một chuyên gia về nghệ thuật xâm lược!

Chuyện đổ bộ mới đổ đốn ra đổ bể!
 

Từ cuộc đổ bộ Normandie đến hiệp ước tự do thương mại xuyên Đại Tây dương

Tổng thống Hoa Kỳ Obama và đồng nhiệm Pháp Hollande tại nghĩa trang Mỹ Colleville-Sur-Mer - AFP / DAMIEN MEYER
Tổng thống Hoa Kỳ Obama và đồng nhiệm Pháp Hollande tại nghĩa trang Mỹ Colleville-Sur-Mer - AFP / DAMIEN MEYER

Tú Anh

Hoa Kỳ và Châu Âu cần phải đoàn kết trong một liên minh thương mại để tìm lại mức độ tăng trưởng cao và duy trì thế lực đối đầu với những nước đang lên. Trong bối cảnh đại lễ kỷ niệm chiến dịch đổ bộ Normandie giải phóng nước Pháp và châu Âu khỏi chế độ Đức Quốc xã, giới chính trị và doanh nghiệp hai bờ Đại Tây dương xem Trung Quốc, chứ không phải Nga, là thách thức tương lai.
 
Ý tưởng « đồng minh xuyên Đại Tây dương » đã được khơi dậy qua chiến dịch « Hải Vương Tinh » đổ bộ lên bờ biển Normandie phía Tây Bắc nước Pháp, ngày 06/06/1944, và được cụ thể hóa với chương trình viện trợ ồ ạt tái thiết châu Âu được đặt tên là kế hoạch Marshall ba năm sau đó.

Với nhận định này, Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Pháp và Hiệp Hội Ký ức thành phố Caen, nơi mà hàng chục ngàn dân bị thiệt mạng dưới hàng ngàn tấn bom của đồng minh, trong ba tuần xung đột giữa Mỹ và Đức, tổ chức một ngày hội thảo quy tụ sinh viên,chính trị gia, giáo sư đại học và doanh nhân chủ nhân xí nghiệp.

Ưu tư của doanh nhân và chuyên gia kinh tế hai bờ Đại Tây dương là phải nhanh chóng thông qua Hiệp định Thương mại Đầu tư Xuyên Đại Tây Dương gọi tắt là TTIP (Transatlantic Trade and Investment Partnership) thiết lập vùng mậu dịch tự do rộng nhất thế giới.

Tiến trình đàm phán TTIP, gay go không kém dự án Hiệp ước Thương mại Tự do Xuyên Thái Bình dương TPP, nhưng mới ở giai đoạn đầu mà vòng thứ năm diễn ra từ ngày 19 đến 23 tháng 5 vừa qua.
Xã hội dân sự và nhiều chính khách Châu Âu than phiền không được thông tin minh bạch về nội dung đàm phán và do vậy họ lo ngại các chuẩn mực về an toàn thực phẩm trong Liên Hiệp Châu Âu sẽ không được tôn trọng một khi mở rộng thị trường nhập khẩu hàng hóa Mỹ theo những chuẩn mực khác về chất bảo quản hay chăn nuôi.

Do bận tiếp đón các phái đoàn nguyên thủ và ngoại giao quốc tế đến Pháp dự lễ kỷ niệm 70 năm ngày đồng minh đổ bộ lên Normandie, Ngoại trưởng Pháp Laurent Fabius không đến dự hội thảo nhưng qua thông điệp truyền hình, ông nhấn mạnh đến nhu cầu hai bờ Đại Tây dương, dù quyền lợi có dị biệt đến đâu, cũng cần phải có nhau để đối phó với những cuộc khủng hoảng hiện tại. Ngoại trưởng Pháp không quên nhắc lại là chỉ một mình Hoa Kỳ và và Liên Hiệp Châu Âu không thôi đã đại diện cho gần 50% tổng sản xuất thế giới và một phần ba trao đổi quốc tế.

Cũng như trong tiến trình đàm phán hiệp định TPP xuyên Thái Bình dương với châu Á , Hoa Kỳ muốn nhanh chóng ký kết với Tây Âu hiệp định TTIP. Chủ tịch Phòng Thương mại Hoa Kỳ Thomas Donahue, nhân vật có thế lực vừa kêu gọi chính quyền Mỹ bỏ cấm vận Cuba, tuyên bố tại Caen : Chúng ta cần một liên minh Đại Tây dương hùng mạnh vì không thế phát triển với tỷ lệ tăng trưởng là con số không hay với 1% hay 2%.

Theo chủ tịch Phòng Thương Mại Hoa Kỳ, giải pháp hiệu quả nhất để phương Tây hùng mạnh là đạt đến thỏa thuận trao đổi thương mại tự do. Vấn đề là ở châu Âu nhất là các tổ chức bảo vệ môi trường, sức khỏe, an toàn thực phẩm không muốn hàng hóa Mỹ không theo chuẩn mực của Bruxelles tràn ngập tủ lạnh, nhà bếp, quán ăn ở châu Âu.

Nhưng tại sao phải cần một « liên minh xuyên Đại Tây dương mới » nếu chỉ để nâng tỷ lệ tăng trưởng ? Theo lập luận của cựu Thủ tướng vùng Québec tự trị ở Canada, ông Jean Charest, một người có kinh nghiệm đàm phán quốc tế thì cuộc cờ TTIP có tầm chiến lược sinh tử vượt lên trên dị biệt quyền lợi thương mại của Đại Tây dương.

Trong chủ đề thảo luận làm cách nào đem lại sức bật mới cho liên minh Đại Tây dương 70 năm sau trận Normandie và kế hoạch tái thiết hậu chiến Marshal, nhà chính trị Canada phân tích tình hình tương lai : Trong bối cảnh nhiều nền kinh tế đang vùng lên trong thế giới chúng ta đang sống thì thế được thua tùy thuộc vào kẻ nào định đoạt luật chơi thương mại quốc tế.

Jean Charest nói tiếp và nói thẳng : chính vì Trung Quốc mà chúng ta phải đạt được thỏa thuận mậu dịch tự do Xuyên Đại Tây dương. Không kể tự do trao đổi hàng hóa và dịch vụ, còn có khả năng tự do đi lại cho phép các nước thành viên thu hút nhân tài, tạo hoàn cảnh đất lành chim đậu.

Không riêng Bắc Mỹ, ủy viên châu Âu đặc trách thị trường nội địa và dịch vụ Michel Barnier cùng xác quyết « cần hiệp ước TTIP » nhưng với điều kiện đối tác bên kia bờ Đại Tây Dương phải tuân thủ một số chuẩn mực về an toàn thực phẩm của Châu Âu chẳng hạn.

Alexis Jamet, chủ nhân công ty điện toán Bunkr, một doanh nhiệp trẻ nhưng đã có cơ sở tại 160 quốc gia, mong đợi cơ hội mà ông gọi là « kế hoạch Marshall thứ hai » cho phép doanh nghiệp hợp tác hoặc cạnh tranh tự do để nâng cao khả năng canh tân.

Theo AFP, các doanh nhân trẻ và sinh viên tham gia hội thảo rất hoan nghênh và mong chờ viễn ảnh trao đổi tự do này giữa hai bờ Đại tây dương.

70 năm sau khi nửa triệu quân đồng minh đổ bộ giúp châu Âu diệt Đức Quốc Xã, vì sự sống còn của các nước Tây phương, một liên minh mới đang hình thành nhưng lần này để đối phó với mối đe dọa tương lai được chỉ đích danh là Trung Quốc.

Nguồn: http://www.viet.rfi

Thứ Năm, 5 tháng 6, 2014

G7 quan ngại sâu sắc về tranh chấp chủ quyền ở Châu Á

Thời sự: Thứ năm, 5/6/2014
                                          
Các nhà lãnh đạo nhóm G7 thảo luận tại Brussels, ngày 4/6/2014.
Các nhà lãnh đạo nhóm G7 thảo luận tại Brussels, ngày 4/6/2014
            
Nhóm 7 nước công nghiệp (G7) bày tỏ quan ngại sâu sắc trước căng thẳng ở Biển Đông và Biển Hoa Đông, nơi đang có tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc với các nước láng giềng.

Trong thông cáo sau cuộc họp hôm qua ở Brussels (Bỉ), các lãnh đạo trong nhóm G7 tuyên bố phản đối các nỗ lực đơn phương nhằm khẳng định các đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ hay biển đảo bằng cách đe dọa, chèn ép, hay dùng võ lực.

Dù không đề cấp đến quốc gia nào nhưng người ta xem thông cáo này là một sự chỉ trích nhắm vào Trung Quốc, quốc gia đang bị các nước láng giềng tố cáo dùng chiến thuật hiếp đáp để thăng tiến các tuyên bố chủ quyền hàng hải trên quy mô lớn.

Cả Trung Quốc và Nhật đều nhận chủ quyền ở Biển Hoa Đông. Tranh chấp leo thang trong năm 2012 sau khi Nhật quốc hữu hóa một nhóm đảo tại đây. Sau đó, Bắc Kinh đã tuyên bố một Vùng Nhận Dạng Phòng Không trong khu vực.

Tại Biển Đông, Trung Quốc và Việt Nam đang tranh cãi căng thẳng liên quan đến vụ một giàn khoan của nhà nước Trung Quốc đặt tại vùng biển có tranh chấp ngoài khơi bờ biển Việt Nam. Tàu hai nước đã xịt vòi rồng qua lại và đâm va vào nhau.

Các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc cũng chồng chéo với Philippines, Malaysia, Brunei, và Đài Loan.

Hoa Kỳ tuyên bố không đứng về bên nào trong các cuộc tranh chấp nhưng mạnh mẽ chỉ trích các hành động của Trung Quốc. Mới đây, Bộ Trưởng Quốc phòng Mỹ, Chuck Hagel, gọi các động thái của Bắc Kinh là ‘gây bất ổn.’

Bắc Kinh bác bỏ các tuyên bố này và xem đó là sự can thiệp bên ngoài vào chuyện nội bộ của Trung Quốc. Chưa thấy Bắc Kinh lên tiếng bình luận về thông cáo mới đây của nhóm G7.
 

Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2014

THẾ CỜ CHIẾN LƯỢC CHÍNH TRỊ VIỆT NAM


Suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, kể từ thời Pháp thuộc cho đến giờ Việt Nam vẫn là nước tuột hậu mọi mặt so với đà tiến hóa chung của thế giới gồm những nước phát triển về mặt khoa học kỹ thuật, chính trị, văn hóa xã hội theo đà văn minh tiên tiến như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Hòa Lan, Nhật Bản... Những nước này trước đây đã từng là thực dân, mặc dù một vài nước đã từng bị bại trận sau thế chiến như Đức, Ý, Nhật, nhưng tất cả đều đã đặt nền móng cho đất nước họ, đi bước đầu thế giới trong việc công nghệ hóa quốc gia và nhất là khoa học chính trị ngày nay thật đã giải phóng cho nhân loại có đuợc nhiều tự do nhân phẩm và quyền làm người thật sự được bảo đảm tôn trọng.

Khác với các quốc gia chậm tiến khác, ngày hôm nay Việt Nam còn thua cả Philippines, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Nam Hàn, những quốc gia này cũng đã từng là thuộc địa bị đô hộ, nhưng họ có được may mắn là sau thế chiến, nước họ đã không có xảy ra chiến tranh dai dẳng như Việt Nam, nên họ đã có thời gian yên ổn để xây dựng phát triển. Ngược lại Việt Nam lại rơi vào cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam Bắc, để rồi bị tàn phá, tuột hậu hơn nữa so với các quốc gia cũng từng là thuộc địa hay bán thuộc địa nói trên.

Sự tuột hậu của Việt Nam có những nguyên nhân sâu xa còn kéo dài đến ngày nay. Khi so sánh về sự tiến bộ phát triển với các nước quanh khu vực, Việt Nam thường hay đem Nhật hay gần nhất là Nam Hàn cũng đã từng có chung những trường hợp tương tự như đất nước bị chia đôi để lượng định hướng đi và những bài học của lịch sử.

Nước Nhật và Việt Nam đã có những giai đoạn lịch sử khá giống nhau vào giữa thế kỷ thứ 19 với triều đại Minh Trị Thiên Hoàng ở Nhật và nhà Nguyễn ở Việt Nam. Lúc chế độ Mạc Phủ (Tokugawa) ở Nhật bế quan toả cảng thì Việt Nam đang trong thời kỳ cai trị của vua Gia Long, có thể nói còn cởi mở hơn chế độ Mạc Phủ bởi vua Gia Long đã từng giao tiếp với Pháp cũng như nhiều giáo sĩ Thiên Chúa giáo đến truyền giáo ở Việt Nam. Vua Gia Long cũng đã thấy rõ  phần nào tình hình và những thế lực thực dân bành trướng theo đường biển đến vùng Đông Nam Á như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan có mặt trên các thuộc địa như Philippines, Nam Dương, Mã Lai Á... nhưng tiếc thay vua Gia Long cũng như những vị vua khác sau này không thức thời thấy được sức mạnh hàng hải và những kỹ thuật khoa học lẫn quân sự cũng như xu thế chính trị của thời đại nên đã bỏ mất cơ hội canh tân hóa đất nước theo khoa học Tây phương để có đủ sức mạnh bảo vệ chủ quyền quốc gia trước sự xâm chiếm của thực dân Châu Âu. Những năm như 1842 Anh gây cuộc chiến tranh Nha Phiến ở Trung Hoa để mở đầu việc thiết lập các Tô giới giao thương dưới quyền cai trị của các cường quốc Tây phương. Năm 1853 Đô đốc Perry của Mỹ  kéo chiến hạm tới Nhật buộc chề độ Mạc Phủ phải dỡ bỏ chính sách bế quan tỏa cảng cũng nhằm thiết lập những hải cảng giao thương. Năm 1856 Pháp kéo chiến thuyền Catinat đến cửa biển Đà Nẵng bắn phá khắp nơi cũng nhằm buộc nhà Nguyễn phải gỡ bỏ chính sách bế quan tỏa cảng. Thấy thế để có dịp so sánh những quốc gia nào trong cùng một thời gian đã sớm biết thức tỉnh để canh tân hóa quốc gia theo kỹ thuật khoa học Tây phương ngõ hầu đủ mạnh để không bị thực dân Tây phương xâm chiếm. Trường hợp nước Nhật, chế độ Mạc Phủ dần suy yếu, cuối cùng phải trao trả mọi quyền hành cai trị lại cho Minh Trị Thiên Hoàng để mở ra thời kỳ canh tân đất nước với những người lãnh đạo dưới trướng của Minh Trị đầy hùng tâm, trong sạch cùng chủ động triệt để theo đuổi sách lược canh tân đất nước theo hướng khoa học kỹ thuật của Tây phương.

Phần Việt Nam, các vua nhà Nguyễn luôn thủ cựu, ôm lấy cái học của Trung Hoa không muốn bứt rời, vẫn bế quan tỏa cảng mặc dù tiếng súng của Pháp đã cảnh báo, nếu không thức tỉnh canh tân đất nước theo khoa học Tây phương thì tai họa vì yếu thế, bại trận, bị đô hộ sẽ xảy ra sau này. Nhưng các vua nhà Nguyễn vẫn cứ mê ngủ trong cái học cổ thời của Trung Hoa, vẫn cứ cấm đạo, giết hại các giáo sĩ lẫn những người theo Thiên Chúa giáo, tuyệt giao chung với những đòi hỏi mở cửa thông thương của Tây phương. Cơ hội canh tân đất nước theo lối Tây phương như Nhật đã bỏ lỡ, hậu qủa là bại trận trước sự xâm lăng của Pháp để bị đô hộ suốt gần 100 năm kéo dài trong tình trạng nhược tiểu lệ thuộc.

Tinh trạng Việt Nam bị lệ thuộc Pháp kéo dài gần một thế kỷ, cho đến thế chiến thứ 2 kết thúc, các cường quốc Châu Âu đã dần trao trả độc lập lại cho các quốc gia thuộc địa. Cơ hội mới đã đến cho Việt Nam để có thể chung sức bắt tay canh tân đất nước, nhưng tiếc thay cơ hội lần thứ 2 này cũng đã bỏ lỡ. Từ khi Việt Nam được trao trả độc lập 1954, đồng thời cung bị phân chia hai miền Nam Bắc thành hai chế độ qua sự chi phối trong một thế giới lưỡng cực giữa tư bản và cộng sản. Chiến tranh đã nổ ra giữa hai miền Nam Bắc thành một cuộc nội chiến tương tàn, hủy hoại toàn diện đến tận cùng mọi nền tảng xã hội. Trên 20 năm chiến tranh đã tàn phá mọi nguồn nhân lực, tàn phá mọi mặt đời sống nên không thể nào có được cơ hội để canh tân đất nưóc. Khi chế độ cộng sản miền Bắc đã khai tử chế độ tự do miền Nam để rồi có dịp nhìn lại, mặc dầu đã gần nửa thế kỷ chiến tranh đã đi qua, ngày nay ta thấy rõ chế độ cộng sản chỉ là sản phẩm giai đoạn của đế quốc Nga và Tàu. Chủ thuyết Mác-Lênin có thời hai nước Nga-Hoa đã xem nhau như thù địch, tố cáo nhau là "phản động", là "chủ nghĩa xét lại". Điều này chứng tỏ lý thuyết Mác-Lênin được áp dụng đầu tiên tại nước Nga để xây dựng nên nhà nước Sô-Viết chỉ nhằm chống lại phương Tây, phản ảnh rõ hoàn cảnh địa lý và chính trị với chiều dài lịch sữ nhiều thế kỷ từ thời các Sa Hoàng đến giờ nước Nga luôn trong tình thế tranh chấp với các nước phương Tây. Xét cho cùng lý thuyết Mác-Lênin cũng chỉ như phương tiện tiếp tục phản kháng lại phương Tây, nhưng đến khi không còn phù hợp cho quyền lợi nước Nga nửa thì giới lãnh đạo cũng biết vứt bỏ đi, bới nó không phải là cứu cánh tốt đẹp cần đeo đuổi. Có chăng chỉ còn giới lãnh đạo Hà Nội, lú mù như các tổng bí thư, ban tuyên giáo đảng cộng sản cứ nhại đi nhại lại mà chẳng biết chút gì về thực trạng thế giới ngày nay với những thể chế chính trị tự do dân chủ đang bước vào ngưỡng cửa toàn cầu hóa, có những trách nhiệm chung trong những tương quan đối nội và đối ngoại trên con đường xây dựng và phát triển giữa quốc gia và cộng đồng thế giới.

Trở lại việc canh tân đất nước như đã nói, sau 40 năm sau kết thúc chiến tranh với sự cai trị của chế độ cộng sản, Việt Nam ngày nay thật sự cũng đã đánh mất đi cơ hội thứ 2  kể từ năm 1954 đến nay. Điều dễ thấy nhất như đã trình bày, thể chế chính trị cộng sản theo học thuyết Mác-Lênin chỉ là phương tiện giúp nước Nga lôi kéo những nước khác trên thế giới chống lại phương Tây, ngày nay nó không còn hiệu qủa nửa thì phương tiện lỗi thời này phải bị nước Nga khai tử để tìm những phương tiện khả thi khác. Việt Nam chỉ còn chờ một cơ hội thứ 3 sau thời kỳ hậu cộng sản, chờ cho đến khi nào chế độ công sản không còn tồn tại trên đất nước Việt Nam như trường hợp nước Nga đã hủy bỏ nó như một phương tiện chống Tây phương đã lỗi thời. Vấn đề canh tân của Việt Nam từng ấp ủ gần hai thế kỷ qua không phải để chống lại Tây phương như Nga, hay bế quan tỏa cảng, khư khư ôm lấy cái học cổ thời như nhà Nguyễn, mà vấn đề canh tân đất nước phải nhìn đến phương Tây như Nhật Bản đã thực hiện cách nay đã hai thế kỷ.

Canh tân đất nước theo khoa học kỹ thuật Tây phương cũng cần phải canh tân cả về mặt khoa học chính trị theo lối Tây phương mới tạo nên những điều kiện: Ắt có và  hội đủ cho công cuộc phát triển theo chiều hướng tốt.

Khi nhìn nhận chính trị là một khoa học tổng quan, thống lãnh mọi môn học khác trong việc điều hành và chi phối tất cả những hoạt động của toàn thể quốc gia và xã hội thì mặc nhiên chúng ta cũng phải thừa nhận những sự liên quan đến cả mọi lãnh vực khác như kinh tế, quân sự, văn hóa xã hội... đến bang giao quốc tế cũng đều có những định chế và công ước tuân thủ chung cho những quốc gia thật sự thấy mình có trách nhiệm muốn đưa đất nước tiến theo chiều hướng phát triển tốt đẹp chung.

Cuối cùng chính trị mới là cứu cánh luôn cần phải đeo đuổi, cần có một tầng lớp lãnh đạo thanh liêm và thông hiểu được hết đường hướng canh tân chung, giữ cho xã hội không tan rã vì lối học theo Tây của từng cá nhân người Việt trong hai thế kỷ qua chỉ thụ động vì thời thế bắt buộc, nước đến chân nên mới chịu nhảy nên đa số không có phương hướng và chủ đích nào ngoài vấn đề  mưu cầu sự sống vật chất, chưa nói khi những cá nhân ngồi lại như tình trạng người Việt ngày nay thì ôi thôi!... ấu đả nhau vô số chuyện ông nói gà, bà nói vịt... chẳng ai chịu nghe ai! Khác hẳn người Nhật khi ngồi chung lại với nhau là cả một sức mạnh đáng kính nể, cho thấy công cuộc canh tân khởi đầu từ hai thế kỷ qua, những nguời lãnh đạo nước Nhật luôn có chính sách và đường hướng giữ cho xã hội Nhật Bản luôn được đều hòa phát triển, nhất là công cuộc lãnh đạo từ thời Minh Trị Thiên Hoàng đến ngày nay luôn được kế tục qua mọi chính quyền nên những kinh nghiệm cùng những tinh hoa qúi báu đã trở thành di sản vô gía giúp nước Nhật luôn biết đoàn kết gắn bó, đến thế giới nhìn vào đều phải kiên nể, thán phục.

Nhìn lại Việt Nam ngày nay, chúng ta nhận thấy con đường tiến thủ đã rõ! Chế độ chính trị đường cùng của cộng sản đã mất phương hướng. Không có con đường nào bi đát hơn là " Định hướng xã hội chủ nghĩa ". Chế độ cộng sản đã tự mâu thuẩn với mọi gía trị văn minh thời đại, còn tệ hại hơn thời kỳ bế quan tỏa cảng của nhà Nguyễn đã dẫn đến hậu qủa bại trận trước thực dân Pháp.

Ngày nay thể chế chính trị cộng sản Việt Nam luôn dựa dẫm theo Tàu, nên mọi chính sách chiến lược ít nhiều đều bị lệ thuộc theo Bắc Kinh, đặt Việt Nam vào trong quỹ đạo vận hành của Bắc Kinh. Mới nhất là giàn khoan Hải Dương (Haiyang Shiyou) 981 của Trung cộng đã khuấy động ngoài Biển Đông, cũng là lúc mọi người thấy rõ hơn những phản ứng luôn mang tính đỡ đòn, thụ động của Hà Nội, chẳng tạo được một chiến lược đối trọng trường kỳ nào trước sự xăm lăng trắng trợn của Bắc Kinh, bởi bản chất chế độ Hà Nội là đầu phục Bắc Kinh để còn ve vãn tưng hót và nương nhờ vai trò đồng chí truyền thống còn sót lại trong lịch sử đã cáo chung của các chế độ cộng sản trên khắp thế giới.


Thể chế chính trị cộng sản Việt Nam đã nương bóng theo người thì làm gì có chiến lược sâu xa nào hơn là chấp nhận bị lệ thuộc vào những quyết định may rủi của nước lớn như Trung cộng. Khi nước lớn muốn tác oai tác quái, kéo giàn khoan đến cắm sâu vào vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam thì nội bộ đảng cộng sản Việt Nam không còn bưng bít được những chia rẽ xáo trộn. Mai đây nếu Bắc Kinh cho triệu tập một hội nghị theo ý tổng bí thư đảng CSVN từng sợ hãi quếnh quán muốn khẩn khoản liên lạc cầu hòa gấp qua đường dây nóng về vụ giàn khoan, nhưng đã bị Bắc Kinh cắt đứt theo lối giận dữ kiểu như cha muốn từ con, thôi còn gì tủi nhục hơn nữa hỡi ông tổng bí thư!... Mai này Bắc Kinh nguôi ngoai, Tập Cận Bình có chút bớt giận, sẽ triệu hồi cả hàng ngũ đảng CSVN qua răn đe trách móc thì phận yếu hèn như đảng CSVN biết sao hơn là phải lục đục, cố lôi kéo nhau hết qua Tàu triều kiến là cái chắc.

Một hội nghị Thành Đô thứ 2 chăng? Cả đất nước Việt Nam lại thêm một lần tắt ngủm nữa vì thế cờ chả ra chiến lược chính trị gì của đảng cộng sản Việt Nam đành phải chịu khuất phục trước thế cờ chiến lược chính trị của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.

@ Phạm Thiên Thơ

Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2014

Shangri-la: Mỹ ủng hộ kế hoạch “phòng vệ tập thể” của Nhật

Thời sự: Thứ bảy, 31/05/2014

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel phát biểu tại Diễn đàn An ninh Khu vực Shangri-La, Singapore - REUTERS /Edgar Su
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel phát biểu tại Diễn đàn An ninh Khu vực Shangri-La, Singapore – REUTERS /Edgar Su
Tú Anh
 
Chiến lược an ninh khu vực của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe được Hoa Kỳ công khai hậu thuẫn. Tại Diễn đàn an ninh khu vực Shangri-La, Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel tuyên bố Nhật Bản sẽ phải năng động hơn trong vai trò bảo vệ an ninh khu vực và Hoa Kỳ hết lòng yễm trợ.

Theo AFP, tại Diễn đàn an ninh khu vực khai mạc vào ngày hôm qua 30/05 ở Singapore, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tuyên bố là Nhật Bản sẽ tích cực hơn trong việc bảo vệ an ninh khu vực theo như các nguyên tắc mới đã được sửa đổi về vai trò của quân đội mà Nhật Bản vẫn gọi là «tự vệ đội».
 
Bình luận về lời tuyên bố này của lãnh đạo Nhật Bản, cũng ngay tại Shangri-La, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel, một cách mạnh mẽ nhất, ủng hộ quan điểm của Tokyo. Chủ nhân Lầu năm góc tuyên bố với các đồng nhiệm, chuyên gia, tướng lãnh vùng Châu Á-Thái Bình dương là Hoa Kỳ ủng hộ nỗ lực của Nhật «tái phối trí kế hoạch Phòng Vệ Tập Thể theo chiều hướng năng động kiến tạo hòa bình và trật tự khu vực».
 
Một cách cụ thể, Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel cho biết là Hoa Kỳ và đồng minh Nhật Bản đã « bắt đầu xem xét lại các đường lối chỉ đạo chung » lần đầu tiên từ hai thập kỷ. Nỗ lực chung này nhằm bảo đảm cho liên minh Mỹ-Nhật phát triển phù hợp với tình hình an ninh khu vực và nâng cao khả năng ứng phó của quân đội Nhật.
 
Trước đó, theo trình bày của Thủ tướng Shinzo Abe, Nhật Bản cũng như Đông nam Á đang bị Trung Quốc gây hấn. Trong tình huống này, Tokyo phải có khả năng đối trọng với Bắc Kinh và phải năng động hơn hiện nay.
 
Theo sách lược « phòng vệ tập thể », quân đội Nhật không bắt buộc phải chờ bị đối phương tấn công trước mà có thể ra tay trước nếu một « đơn vị bạn » bị đe dọa.
 

Vì an ninh châu Á, Nhật Bản đối trọng với Trung Quốc

Thời sự: Thứ bảy, 31/05/2014

Thủ tướng Shinzo Abe: Nhật sẽ giao cho Philippines, Indonesia và Việt Nam tàu tuần duyên để tăng khả năng tự vệ - Reuters /P. Hackett
Thủ tướng Shinzo Abe: Nhật sẽ giao cho Philippines, Indonesia và Việt Nam tàu tuần duyên để tăng khả năng tự vệ – Reuters /P. Hackett
Tú Anh
 
Trung Quốc đơn độc tại Diễn đàn An ninh Châu Á Shangrila diễn ra hàng năm tại Singapore. Hành động gây bất ổn định của Bắc Kinh bị Washington cảnh cáo trong khi Tokyo, nhân danh hòa bình khu vực tuyên bố sẽ chủ động hơn và giúp đỡ nhiều hơn các quốc gia Đông Nam Á bị Trung Quốc lấn hiếp.
 
Thái độ hung hăng của chính quyền Trung Quốc tại Hoa Đông và Biển Đông đã đưa đến một hệ quả không thể tránh được : Bắc Kinh bị đặt vào thế bị cáo trong lúc Tokyo nổi bật với vai trò cứu tinh : hỗ trợ các quốc gia trong vùng bảo vệ an ninh trên không và trên biển.
 
Tại Diễn đàn An ninh khu vực Sangri-La, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe với tư cách là khách mời chỉ đạo, tuyên bố Nhật và Hoa Kỳ đã sẵn sàng thắt chặt hợp tác với Úc và Hiệp Hội các Quốc gia Đông Nam Á ASEAN.
 
Trong chiều hướng này, Nhật Bản đóng vai trò năng động và tích cực hơn so với thời gian qua để bảo vệ hòa bình tại châu Á và cho thế giới.
 
Trước mặt các phái đoàn quân sự cao cấp, chuyên gia quân sự, ngoại giao quốc tế trong đó có Trung Quốc, và Đông Nam Á, ông Shinzo Abe loan báo Nhật Bản sắp chuyển giao cho Philippines, một trong những quốc gia nghèo trong vùng, 10 tàu tuần duyên để tăng cường khả năng tự vệ. Indonesia cũng sắp nhận được ba tàu tuần duyên tương tự và Việt Nam cũng có thể được hỗ trợ không khác gì hai nước ASEAN kia.
 
Thông điệp an ninh của Thủ tướng Nhật Bản được đưa ra vào lúc tình hình trên hai vùng biển Hoa Đông và Biển Đông tăng nhiệt. Hôm nay, hai tàu tuần duyên Trung Quốc lại xâm nhập quần đảo Senkaku mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư. Ngày 25/05/2014, Trung Quốc cho máy bay chiến đấu bay sát, khoảng 30 mét, một máy bay quân sự Nhật Bản.
 
Trong vùng lãnh hải Việt Nam, Trung Quốc hành xử như đang ở ao nhà, đặt giàn khoan tìm khí đốt, huy động hàng trăm hải thuyền trấn áp tàu cảnh sát biển Việt Nam và tàu cá của ngư dân. Bắc Kinh ngang nhiên tuyên bố 80% biển Đông Nam Á là của Trung Quốc.
 
Trong một phản ứng mới nhất, Việt Nam hôm thứ Năm 29/05/2014, tố cáo tàu chiến Trung Quốc chỉa súng uy hiếp tàu cảnh sát biển Việt Nam. Trong cuộc đọ sức không tương xứng với Trung Quốc năm 2012, Philippines bị mất một vùng đảo đá ngầm và ngư trường truyền thống của dân chài.
 
Trong thống điệp tại Singapore, Thủ tướng Nhật Bản nhiều lần nhắc đến « nhà nước pháp quyền » kêu gọi các quốc gia trong vùng tôn trọng ba nguyên tắc : tôn trọng chuẩn mực quốc tế về đường phân định biên giới, không dùng biện pháp cưỡng chế, áp đặt và phải giải quyết bằng biện pháp hòa bình.
 
Không tố cáo đích danh Trung Quốc, Thủ tướng Shinzo Abe lên án các hành động « vi phạm ba nguyên tắc này » cố tình « làm thay đổi nguyên trạng ».
 
Theo quan điểm của lãnh đạo Nhật Bản, để bảo vệ được nền hòa bình trong khu vực trước những đe dọa của Trung Quốc, các nước liên hệ phải hợp tác chặt chẽ với nhau và với Hoa Kỳ cũng như với Úc ở tận cùng Nam Thái Bình dương.
 
Chiến lược của Nhật được đặt tên là « kế hoạch Phòng vệ Tập thể » cho phép Nhật Bản hiện đang bị Hiến pháp hiếu hòa trói buộc, có thể động binh khi một đồng minh bị uy hiếp mà không cần chờ đến phiên mình bị tấn công.
 
Sáng kiến của Tokyo đã được Hoa Kỳ, qua tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel hoan nghênh và ủng hộ.
 
Kế hoạch này nếu được tiến hành sẽ tạo cho Nhật bản một vai trò chủ động hơn thay vì phải chờ và nhờ sức mạnh của Hoa Kỳ. Mặt khác, nó giúp cho ngành công nghệ quân sự Nhật Bản phát triển mạnh và làm nhẹ gánh nặng tài chính của Mỹ trong chiến lược chuyển trục. Các nước Đông Nam Á có được một đồng minh gần về quân sự lẫn kinh tế.
 
Phản ứng của Trung Quốc không làm giới phân tích ngạc nhiên : Theo AFP, bà Phó Oánh, chủ tịch Ủy ban đối ngoại của quốc hội Trung Quốc có mặt tại Singapore, cho rằng Nhật Bản khai thác xung khắc biển đảo để sửa đổi chính sách an ninh khu vực và điều này làm các quốc gia trong vùng lo ngại.
 
Ngoại trừ Bắc Kinh, chưa một thủ đô châu Á nào bị Trung Quốc uy hiếp, đã lên tiếng phản đối Nhật Bản.